Chương III: Đảng bộ Nam Định lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc (1930-1945)
CHƯƠNG III
ĐẢNG BỘ NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
(1930-1945)
I. PHÁT ĐỘNG CAO TRÀO CÁCH MẠNG (1930-1931)
Sau khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bị phân liệt và Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời thì trung tuần tháng 11-1929, An Nam Cộng sản Đảng cũng thành lập và tháng 1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn cũng hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của phong trào cách mạng cả nước. Đứng trước tình hình ba tổ chức cộng sản cùng tồn tại song song, cùng tranh thủ gây ảnh hưởng trong quần chúng cách mạng tạo ra sự bất lợi chung cho phong trào cả nước, Quốc tế Cộng sản đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Ai Quốc "hợp nhất các phần tử cộng sản chân chính lại để thành lập một đảng duy nhất", với trách nhiệm đó ngày 3-2-1930, tại Cửu Long (Hương Cảng - Trung Quốc) đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất, lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã thông qua Chính cương, Sách lược và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn Ái Quốc dự thảo. Đây là cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối chiến lược và sách lược cách mạng đúng đắn là sự cổ vũ lớn lao đối với phong trào cách mạng đang ở thời kỳ phát triển sôi sục. Đường lối cách mạng của Đảng được công bố trở thành động lực cuốn hút, tập hợp mọi lực lượng nhân dân, tạo nên sự chuyển biến lớn cho phong trào cách mạng địa phương.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời giữa lúc đời sống nhân dân nhất là giai cấp công nhân, nông dân đang vô cùng điêu đứng, lầm than vì nạn tổng khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới (1929-1933), vì những chính sách bóc lột tàn bạo của tư bản Pháp ở Đông Dương và thiên tai liên tiếp xảy ra. Nhiều nhà máy chỉ còn hoạt động cầm chừng hoặc đóng cửa do không tiêu thụ được sản phẩm.
Ở Nhà máy sợi Nam Định, trong năm 1930, sản lượng vải chỉ bằng nửa năm 1927. Các xưởng dệt có 1.400 thợ thì 600 thợ bị đuổi, mất việc làm, các xưởng sợi chỉ hoạt động có 289 ngày. Hàng loạt công nhân, viên chức mất việc, số có việc làm cũng chịu cực nhọc, khổ sở trăm bề vì những khoản lễ lạt cho cai, ký, vì bị cúp phạt, lương thấp, vì các loại thuế ngày càng tăng. Đời sống công nhân thực sự điêu đứng.
Người nông dân Nam Định sống thoi thóp trong chính sách bần cùng hoá của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Đã vậy, thiên tai lại liên tiếp giáng xuống đầu nông dân, hết hạn hán lại đến bão lụt. Riêng trận bão khủng khiếp ngày 30-7-1929, Nam Định đã có gần tám vạn ngôi nhà bị đổ, 10 vạn mẫu ruộng không cấy lại được.
Trong một bối cảnh tình hình đời sống kinh tế khốn cùng như vậy, không một giai cấp, một tầng lớp nhân dân nào ở Nam Định không bị ảnh hưởng. Học sinh bỏ học. Tiểu tư sản không có công ăn việc làm. Tư sản dân tộc bị tư bản Pháp chèn ép dẫn đến nhiều người bị phá sản. Mọi giai tầng trong xã hội đều đứng trước nguy cơ xô đẩy của cuộc sống.
Căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương và quán triệt chủ trương, đường lối của Trung ương, Tỉnh uỷ Nam Định đề ra một số nhiệm vụ cụ thể:
Xây dựng và phát triển mạnh mẽ các tổ chức quần chúng trong công nhân, nông dân; tuyên truyền, giáo dục đường lối cách mạng của Đảng, nâng cao lòng yêu nước và phát động quần chúng đấu tranh, giành giật quyền lợi hằng ngày, tiến lên thực hiện nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, phong kiến.
Thông qua phong trào đấu tranh của quần chúng mà đẩy mạnh việc xây dựng, củng cố Đảng bộ về mọi mặt, nâng cao tinh thần tiền phong chiến đấu của Đảng, ra sức đào tạo cán bộ, đảm bảo Đảng là hạt nhân lãnh đạo phong trào.
Những chủ trương của Đảng bộ tuy chưa thật toàn diện nhưng khi truyền đạt xuống cơ sở đã sớm vực phong trào của tỉnh hoà trong cao trào cách mạng chung của cả nước.
Mở đầu phong trào đấu tranh liên tục, sôi nổi thời kỳ này là cuộc bãi công của 44 nữ công nhân Nhà máy chiếu thuộc Công ty Thương mại Á Châu ngày 15-3-1930 đòi chủ bỏ đánh đập, tăng lương, bớt giờ làm, không được đối xử tàn nhẫn với chị em. Tuy cuộc bãi công chưa đạt được mục tiêu đề ra nhưng đã làm cho chủ nhà máy và các tầng lớp cai, ký lo ngại trước khí thế đấu tranh dũng cảm của nữ công nhân nhà máy.
Không khí đấu tranh của công nhân Nhà máy chiếu vẫn chưa lắng thì 10 ngày sau, tại thành phố Nam Định đã nổ ra cuộc tổng bãi công của toàn thể công nhân Nhà máy sợi với tầm cỡ và quy mô đặc biệt.
Cuộc tổng bãi công xảy ra trong không khí sôi sục chuẩn bị hoạt động mạnh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động và chào mừng Đảng ra đời. Ngay từ giữa tháng 3, Tỉnh uỷ Nam Định đã triệu tập cuộc họp có đại diện của công nhân Nhà máy sợi, Nhà máy tơ, Nhà máy chiếu, Nhà máy đèn, Nhà máy cưa. Sau khi thông báo tình hình các nhà máy và ở địa phương, Tỉnh uỷ đã đi đến quyết định phát động công nhân đấu tranh vào dịp Quốc tế Lao động.
Công việc chuẩn bị đang được tiến hành khẩn trương thì một sự việc bất ngờ diễn ra tại Nhà máy sợi. Đêm 25-3, tên đốc công Rine vô cớ hành hung thợ, làm mọi người rất căm phẫn và đó chính là sự kiện châm ngòi cho cuộc đấu tranh. Các đảng viên trong Xưởng dệt A kịp thời kêu gọi công nhân đóng máy phản đối, đồng thời cử người báo cáo ngay với Tỉnh uỷ... Đảng bộ chủ trương kịp thời nắm lấy sự kiện này để nhân tinh thần đấu tranh của quần chúng dâng cao mà phát động phong trào. Đồng chí Khuất Duy Tiến - Tỉnh uỷ viên (đã vô sản hoá ở nhà máy) được cử vào trực tiếp chỉ đạo.
Chủ nhà máy là Mắcxăng thấy tình hình không ổn phải đến đối chất. Đại diện công nhân tố cáo các hành động tàn bạo của đốc công và nêu yêu sách:
- Phải bỏ hẳn đánh đập,
- Không được phạt lương thợ,
- Tăng lương cho thợ.
Tên chủ chỉ hứa hẹn qua loa mà không chịu giải quyết cụ thể. Một số thợ bỏ ra về. Ngay đêm đó, được sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, tổ chức Đảng và Công hội của Nhà máy được thành lập. Ban lãnh đạo đấu tranh gồm các tiểu ban tự vệ, tuyên truyền, tài chính và ban đối chất.
Dưới sự chỉ đạo sát sao của uỷ ban đình công, sáng ngày 26-3, tất cả thợ của ba xưởng dệt cũng nhất loạt bãi công hưởng ứng. Công nhân rầm rộ kéo đến làm áp lực cho Ban lãnh đạo đòi trực tiếp gặp chủ nhà máy. Hòng dập tắt bãi công, chủ tư bản cấp báo với nhà cầm quyền bắt một số người chúng nghi là cầm đầu và dùng tiền mua chuộc công nhân đi làm, công bố tăng lương cho thợ nhưng loại trừ tăng lương cho xưởng dệt, nhằm cô lập thợ dệt - nơi châm ngòi nổ của cuộc bãi công. Các yêu sách khác chúng vẫn chưa chịu chấp nhận rõ ràng.
Để giáng đòn quyết định và đập tan âm mưu chia rẽ phong trào của địch, Tỉnh uỷ đã tập trung chỉ đạo, củng cố Ban lãnh đạo bãi công, đồng thời phát động nhân dân toàn tỉnh hỗ trợ cho đấu tranh của công nhân. Ngày 28-3, toàn thể công nhân Nhà máy sợi nhất loạt đóng máy, rầm rầm kéo đến đòi gặp chủ nhà máy đưa thêm yêu sách:
- Đuổi thợ phải rõ lý do,
- Thợ ốm nghỉ một ngày không bị sa thải và không bị phạt,
- Cho hãm máy nửa giờ ăn cơm trưa,
- Đuổi hai tên cai tàn ác ở xưởng sợi.
Chủ nhà máy một mặt khất lần, một mặt cầu cứu bọn thống trị điều lực lượng vũ trang đến uy hiếp và giải tán công nhân. Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Ban lãnh đạo, công nhân càng xiết chặt đội ngũ, không nao núng. Khi địch xông vào bắt ba người, tức thì ba nghìn thợ bất chấp lưỡi lê, súng ống của mật thám và lính khố xanh, ào ạt xông tới, giành giật người bị bắt. Cả thành phố náo động. Địch phải huy động một lực lượng lớn đến mới giải tán được.
Hành động khủng bố của bọn thống trị không ngăn cản nổi khí thế đấu tranh mạnh mẽ của công nhân, trái lại như lửa đổ thêm dầu. Hơn 400 công nhân Nhà máy sợi, dệt kiên quyết tiếp tục bãi công, làm tê liệt sản xuất từ ngày 29-3-1930 đến trung tuần tháng 4-1930.
Suốt thời gian đó, không ít người lâm vào cảnh thiếu thốn, đói khổ; "phải là ngòi bút của nhà văn hay kỳ tài mới có thể tả được cảnh khốn khổ của hàng ngàn gia đình không đồng xu dính túi trong ba tuần bãi công, mới nói lên một tinh thần chịu đựng gian khổ, ý chí đấu tranh không những của những người chồng mà luôn cả tinh thần của người vợ, không những của người mẹ mà luôn cả ý chí của đám trẻ con...". Bọn chủ nhà máy cấu kết với bọn thống trị vừa khủng bố doạ nạt, vừa dụ dỗ, mua chuộc bằng cách cho tay chân về tận quê hương hoặc nơi ở của công nhân để lôi kéo công nhân đi làm. Để chống lại thủ đoạn thâm độc của kẻ thù và kiên quyết duy trì, lãnh đạo cuộc đấu tranh thắng lợi, Tỉnh uỷ phân công cán bộ, đảng viên bám sát, đi sâu giáo dục, củng cố tinh thần, tư tưởng cho quần chúng; đồng thời tổ chức một cuộc lạc quyên rộng rãi để lấy tiền, gạo ủng hộ thợ bãi công. Thợ các nhà máy, một số tầng lớp nhân dân ở thành phố, một số chi bộ ở nông thôn như Xuất Cốt, An Cừ, Tiêu Bảng (Ý Yên), Lạc Nghiệp (Xuân Trường) và thôn Chanh (Nghĩa Hưng) cùng Công hội một số tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương quyên tiền gửi tặng.
Số tiền quyên được tuy ít nhưng đó là tấm lòng, niềm tin, là sự ủng hộ chí tình của quần chúng nhân dân cổ vũ công cuộc đấu tranh thắng lợi. Đến ngày 12-4, chủ yết thị nhận giải quyết một số yêu sách cơ bản và gọi thợ đi làm. Thấy cuộc đình công đạt được mục tiêu chủ yếu, ngày 16-4, ban lãnh đạo bãi công quyết định để công nhân trở lại làm việc bình thường.
Dưới sự lãnh đạo chặt chẽ và quyết tâm đúng đắn của Tỉnh uỷ, sau 21 ngày gian khổ đấu tranh, với tinh thần đoàn kết, đấu tranh không lùi bước, không khoan nhựợng của công nhân, được sự ủng hộ đầy tình nghĩa của các tầng lớp nhân dân, cuộc bãi công đã vượt qua được những khó khăn, thử thách, giành được thắng lợi cơ bản.
Về kinh tế, thợ được tăng lương 10%, được rút nửa giờ làm việc một ngày. Cuộc tổng đình công này đã làm cho Nhà máy sợi trong năm 1930 bị lỗ vốn lớn nhất tới 1 triệu 47 phơrăng. Nhưng thắng lợi chính trị do cuộc bãi công đem lại còn quan trọng hơn. Đây là cuộc đấu tranh có quy mô lớn nhất ở Nam Định thời kỳ đó, khẳng định uy tín lớn lao của Đảng, nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, trình độ tổ chức của công nhân, cổ vũ tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân trong tỉnh. Không những thế, cuộc bãi công đã làm chấn động dư luận trong nước và cả nước Pháp. Tờ Ngọ báo số ra ngày 5-4-1930 đăng hẳn một bài điều tra trong đó có đoạn viết: "Nhà máy vốn là nơi làm ăn rất náo nhiệt bỗng dưng chỉ còn hàng nghìn cỗ máy đứng trơ ra ở trong mấy cửa kính...
Những con đường trống trải bị nước mưa giội xuống nhẵn lì đi mà không có lốt chân người qua lại. Thợ đình công, đó không chỉ là một điều thiệt riêng cho nhà máy mà còn quan hệ chung cho cả nền kinh tế ở trong xứ. Tại Pari, các nghị sĩ cộng sản chất vấn Chính phủ Pháp về hai cuộc bãi công ở Phú Riềng và Nam Định khiến cho toàn quyền Varen phải biện bạch một cách lúng túng.
Cuộc đấu tranh của gần bốn nghìn công nhân Nhà máy sợi chính thức mở đầu cao trào cách mạng 1930-1931 của toàn tỉnh và cũng góp phần mở đầu cao trào cách mạng toàn quốc do Đảng ta lãnh đạo.
Tuy phải thoả hiệp với phong trào công nhân nhưng ngay sau đó, nhận thấy tính chất chính trị của cuộc đấu tranh, bọn thống trị ở Nam Định cho lính tăng cường tuần phong ráo riết. Ngày 6-5-1930, mật thám và tay sai phát hiện và vây ráp cơ quan Tỉnh uỷ ở ngõ Hàng Kẹo, phố Nguyễn Hữu Độ, thành phố Nam Định, đúng lúc đồng chí Nguyễn Hới đang bàn giao phong trào cho đồng chí Trần Văn Sửu - Bí thư Tỉnh uỷ mới do Trung ương cử về thì bị bắt. Cùng bị bắt trong vụ này còn có hai cán bộ của Đảng trong đó nữ đồng chí Xuân làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan.
Chúng đưa tất cả các đồng chí về sở mật thám tra tấn lấy cung. Trước tình hình đó, các cán bộ lãnh đạo của Tỉnh ủy Nam Định đã chủ động kiện toàn Tỉnh uỷ. Ban Tỉnh uỷ mới gồm các đồng chí Khuất Duy Tiến, Lê Mạnh Hiến, Ngô Huy Ngụ, do đồng chí Khuất Duy Tiến làm Bí thư.
Phong trào vẫn giữ vững, truyền đơn được phát tán ở nhiều đường phố. Tuy vậy, phong trào chưa phát triển mạnh và toàn diện ở các vùng nông thôn.
Tháng 7-1930, đồng chí Trần Văn Lan, Thường vụ lâm thời Trung ương Đảng đưa đồng chí Trần Phú về Nam Định để khảo sát tình hình phong trào công nhân và đời sống của công nhân lao động. Đồng chí đã dành nhiều thời gian làm việc với Ban Tỉnh uỷ Nam Định và các cán bộ chủ chốt của Công hội đỏ tại Nhà 26B phố Cửa Đông (nay là phố Lê Hồng Phong) và tại cơ quan Tỉnh uỷ - Nhà số 225 phố Hàng Nâu (nay là phố Minh Khai, thành phố Nam Định). Đồng chí Trần Phú còn trực tiếp họp với chi bộ công nhân Nhà máy sợi để nắm tình hình cơ sở. Sau một tuần khảo sát, đồng chí đã phát hiện những thiếu sót, góp ý với Tỉnh uỷ để kịp thời uốn nắn phong trào.
Trên cơ sở thắng lợi ban đầu, Đảng bộ chỉ đạo kêu gọi công nhân tiếp tục đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống đánh đập, đuổi việc; nông dân đòi giảm sưu, hoãn thuế, bãi bỏ hội đồng cải lương và sổ chi thu. Phong trào có tiến triển rõ rệt và lan toả theo diện rộng. Từ ngày 25-7 đến 25-9 liên tiếp nổ ra sáu cuộc bãi công, biểu tình của công nhân Xưởng dệt (Nhà máy sợi), Nhà máy tơ.
Lúc này, phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh và phong trào đấu tranh của nông dân Tiền Hải (Thái Bình) đang bị thực dân Pháp khủng bố dữ dội. Thực hiện chủ trương của Trung ương "ủng hộ Nghệ - Tĩnh đỏ" và chống khủng bố trắng, Đảng bộ lãnh đạo giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân đấu tranh ủng hộ Xô viết Nghệ - Tĩnh và truy điệu 8 nông dân Tiền Hải bị địch bắn chết trong cuộc biểu tình ngày 14-10-1930. Tỉnh uỷ Nam Định quyết định tổ chức một cuộc mít tinh lớn vào sáng sớm ngày 22-10-1930 tại sân bay thành phố, là lúc và nơi đa số công nhân ngoại thành đi làm sáng qua đó.
Công tác chuẩn bị được tiến hành từ trước đó ít hôm. Hằng ngày truyền đơn được in, cờ, biểu ngữ may sẵn. Các đảng viên, cán bộ chủ chốt được phân công tuyên truyền, vận động quần chúng đi dự mít tinh. Từ ngày 19-10, truyền đơn, áp phích, cờ đỏ được rải trong các nhà máy, trường học, thôn xóm vạch trần tội ác của bọn đế quốc. Trong các ngày 20, 21 liên tiếp diễn ra các cuộc diễn thuyết trước cổng nhà máy, tại khu công nhân, những nơi tập trung đông người hô hào mọi người tham gia dự mít tinh. Sáng sớm ngày 22-10, cờ đỏ búa liềm được treo trên các cột điện, cây cối trên đường về sân bay. Các đảng viên được phân công hướng dẫn nhân dân tiến đến địa điểm đã định.
Vì sự chuẩn bị khá rầm rộ, kẻ địch đã đánh hơi thấy và chính tên công sứ Sapula đích thân chỉ huy lực lượng ráo riết bủa vây chống phá cuộc biểu tình. Hàng trung đoàn lính lê dương, mật thám được tung ra chặn các ngả đường không cho quần chúng đến địa điểm tập trung nhưng nhiều người vẫn đến được sân bay. Mặc dù kế hoạch đã bị lộ, nhưng Tỉnh uỷ vẫn quyết tâm giao cho đồng chí Ngô Huy Ngụ tổ chức bằng được cuộc mít tinh.
Khi cờ đỏ búa liềm được giương lên, đồng chí Trần Đình Quỳ bắt đầu diễn thuyết thì lính lê dương xông đến, lập tức công nhân hô vang các khẩu hiệu:
- Phản đối đế quôc Pháp đàn áp dã man nông dân Tiền Hải.
- Ủng hộ Xôviết Nghệ Tĩnh.
Bọn lính ào vào, đồng chí Ngô Huy Ngụ vốn thạo tiếng Pháp ra sức thuyết phục binh lính, tạo điều kiện để đồng chí Trần Đình Quỳ tiếp tục nhiệm vụ. Tên công sứ Sapula tức tối xông đến tận nơi, chỉ huy lính xông vào đàn áp. Đồng chí Ngô Huy Ngụ, Trần Đình Quỳ được các đồng chí bảo vệ cuộc mít tinh dùng gậy cản lính lại để hai đồng chí và quần chúng chạy thoát nhưng cả hai đồng chí và một số anh em bị bắt. Phải vất vả lắm chúng mới giải tán được cuộc mít tinh.
Cuộc mít tinh tuy không diễn ra trọn vẹn như kế hoạch đã định nhưng đã gây được ảnh hưởng lớn tới phong trào trong và ngoài tỉnh, tới phong trào đấu tranh của nông dân học sinh và binh lính. Bằng xương máu của mình, giai cấp công nhân đã biểu thị tình đoàn kết chăt chẽ với giai cấp nông dân, quyết tâm kề vai sát cánh tranh đấu cho mục đích chung.
Phối hợp với phong trào công nhân, nông dân các địa phương cũng tích cực đấu tranh. Ở Ý Yên, các chi bộ Đảng phát động quần chúng đứng lên đòi những quyền lợi thiết thực. Phụ nữ thôn Xuất Cốc không đi cấy thuê cho địa chủ để phản đối địa chủ hạ công làm cỏ chiêm, đòi giữ nguyên công cấy như cũ. Đến vụ thuế, dưới sự lãnh đạo của chi bộ, nông dân ký đơn kiện lý trưởng lạm bổ một khoản phụ thu ngoài thuế. Tri huyện Ý Yên buộc phải lệnh cho lý trưởng hạ mức thu lệ phí còn mỗi suất một hào.
Phong trào cả nước đã dâng thành cao trào, đòi hỏi Đảng phải có một Cương lĩnh tương đối hoàn chỉnh, một Ban Chấp hành Trung ương chính thức để lãnh đạo phong trào quần chúng đi theo đúng đường lối của Đảng. Tháng 10-1930, Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ nhất ở Hương Cảng (Trung Quốc) nhằm kiểm điểm đánh giá tình hình từ khi Đảng ra đòi, lãnh đạo nhân dân đấu tranh; thông qua Luận cương Chính trị do đồng chí Trần Phú khởi thảo, quyết định đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương và bầu Ban Chấp hành Trung ương. Tại Hội nghị này, đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Luận cương Chính trị đã được quán triệt tới các cơ sở Đảng, có ảnh hưởng mạnh mẽ, soi đường cho phong trào cách mạng địa phương.
Trên cơ sở Luận cương của Đảng, Tỉnh uỷ Nam Định khắc phục những thiếu sót trước đây, đề ra chủ trương lãnh đạo phong trào toàn diện hơn. Trong công tác xây dựng Đảng, ngoài việc tích cực xây dựng tổ chức, Tỉnh uỷ chú trọng tăng cường công tác tư tưởng. Về phương diện vận động quần chúng, Tỉnh uỷ quan tâm đúng mức hơn tới công tác nông vận, tăng cường cán bộ cho nông thôn đi sâu phát động quần chúng nông dân đấu tranh.
Tỉnh uỷ còn cử đồng chí Nguyễn Doãn Chấp - Tỉnh uỷ viên chắp mối lại toàn bộ cơ sở nông thôn trong tỉnh và ở cả các huyện Gia Viễn, Nho Quan thuộc tỉnh Ninh Bình, tạo đà cho phong trào nông thôn phát triển.
Trước uy thế của Đảng ngày càng cao, thực dân Pháp một mặt tăng cường vây ráp, ngăn chặn các hoạt động cách mạng, mặt khác chúng tổ chức phản tuyên truyền hòng làm mất uy tín Đảng Cộng sản.
Chúng tung ra cuốn Mặt nạ cộng sản đề cao đường lối quốc gia tư sản, tuyên truyền một cách sai lệch trắng trợn chủ nghĩa cộng sản là cộng vợ, cộng chồng, là không có tổ quốc. Vì vậy, nhiệm vụ lúc này là ngoài việc chống lại những tư tưởng quốc gia hẹp hòi, chủ nghĩa cá nhân, những ảnh hưởng lệch lạc của phong trào yêu nước từ trước còn tồn tại- việc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, chống lại các luận điệu xảo trá, quỷ quyệt của địch diễn ra quyết liệt.
Tỉnh uỷ in cuốn Cộng sản vấn đáp kịp thời chống lại việc tuyên truyền nhằm gieo rắc sự hoài nghi trong nhân dân về Đảng Cộng sản, về cách mạng vô sản; chỉ đạo mở những lớp huấn luyện ngắn ngày để vũ trang lý luận cho cán bộ, đảng viên đồng thơi phát động kêu gọi quần chúng đấu tranh nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga. Các chi bộ nhà máy, Trường học, đường phố cùng đồng loạt hành động, ở nông thôn nhiều nơi vẫn tiếp tục treo cờ, rải truyền đơn nói về ý nghĩa to lớn của cuộc cách mạng vô sản ở Liên Xô. Tối mồng 6 và mồng 7, tại thành phố Nam Định, chi bộ học sinh đã tổ chức cho học sinh đi rải truyền đơn ở nhiều đường phố và cũng tối mồng 6, gần như cùng một lúc các đảng viên và quần chúng cách mạng đã gây 6 tiếng nổ lớn trong thành phố. Tại cổng Nhà máy sợi Nam Định, lúc 5 giờ 30' ngày 7 -1930 cờ đỏ búa liềm phất phới tung bay và hàng loạt pháo nổ vang rền. Công nhân hò reo vang động nhà máy. Tối 7-11 công nhân Nhà máy đèn làm tắt điện ở nhiều đường phố. Thông qua đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, cán bộ đảng viên được bồi dưỡng về lý luận cách mạng, rèn luyện khả năng tuyên truyền, vận động cách mạng, tạo điều kiện phát triển tổ chức, đưa phong trào không ngừng phát triển.
Những hoạt động mạnh của Đảng khiến kẻ thù hoảng hốt. Trong đợt hoạt động kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười (7-11), địch điên cuồng vây ráp, bắt 54 người trong đó có đồng chí Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ) và tống giam tại đề lao Nam Định.
Cuối năm 1930, phần lớn các tỉnh uỷ viên bị bắt hoặc chuyển công tác khác. Ban Tỉnh uỷ được bổ sung năm đông chí, do đồng chí Bùi Xuân Mẫn làm Bí thư Tỉnh uỷ, đã chỉ đạo việc tăng cường các cơ quan của Tỉnh uỷ, bảo đảm sự chỉ đạo phong trào toàn tỉnh; phục hồi, củng cô' các cơ sở cách mạng ở thành phố nhất là trong công nhân và học sinh; xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản; thống nhất chỉ đạo và phục hồi phong trào cách mạng ở nông thôn.
Thời gian này, Xứ uỷ Bắc Kỳ cũng chọn địa điểm đóng cơ quan chỉ đạo ở phố Hàng Đồng (thành phố Nam Định), đồng chí Nguyễn Trọng Đàm xứ uỷ viên được phân công phụ trách phong trào Nam Định. Các cơ quan của Tỉnh ủy nằm rải rác ở các phố Hàng Song, Sài Gòn, Pônbe, khu Khoái Đồng. Nam Định trở thành đầu mối giao thông liên lạc của Xứ uỷ với Đảng bộ các tỉnh Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình. Nhiều đảng viên, quần chúng cách mạng đã hết lòng bảo vệ các cơ quan của Đảng, tìm mọi cách đánh lạc hướng bọn mật thám đang ngày đêm dò xét.
Tháng 2-1931, Tỉnh uỷ mở Hội nghị thôn bộ tại thôn Phúc Chỉ, phủ Nghĩa Hưng (nay là xã Yên Thắng - Ý Yên) do đồng chí Nguyên Doãn Chấp chủ trì, gồm đại biểu các huyện Ý Yên, Phong Doanh, Nghĩa Hưng, Trực Ninh, Xuân Trường, Mỹ Lộc và Gia Viễn, Gia Khánh (Ninh Bình). Hội nghị đã nghe truyền đạt Luận cương chính trị, bàn kế hoạch củng cố tổ chức, nghiên cứu Điều lệ, thông báo đổi tên Đảng, kiểm điểm công tác cũ và đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh.
Trong hoàn cảnh địch đánh hơi và đã phát hiện, phá hoại một số cơ sở Đảng, bắt các đảng viên và quần chúng cách mạng, nên bên cạnh nhiệm vụ thường xuyên là tuyên truyền giác ngộ cách mạng, Tỉnh uỷ còn chú trọng tới công tác đấu tranh trong nội bộ Đảng, phê phán những biểu hiện "tả" hoặc hữu khuynh trong Đảng bộ như chủ nghĩa cá nhân, phiêu lưu manh động, rụt rè, cầu an, sợ khủng bố, không dám đấu tranh... Những khuynh hướng này do chậm khắc phục đã gây tác hại làm vỡ cơ sở, để địch phát hiện như ở Nhà máy sợi (thành phố Nam Định), Ngô Đồng (Xuân Trường) kìm hãm phong trào đấu tranh (Ý Yên).
Sau Hội nghị thôn bộ, bên cạnh tờ Tiền phong, Đảng bộ Nam Định còn xuất bản báo Nông dân (sau đổi tên là Hưởng ứng) cho địa bàn nông thôn nhằm giáo dục, nâng cao nhận thức về đường lối cách mạng cho đảng viên và quần chúng nông dân. Nhờ công tác tuyên truyền không mệt mỏi của Đảng bộ, phong trào đấu tranh của nông dân phát triển không ngừng. Mùa hè năm 1931, nông dân Lạc Nghiệp (Xuân Trường) đấu tranh đòi lập chợ. Tháng 6-1931, nông dân ở Xuất Cốc (Ý Yên) đấu tranh đòi địa chủ không được hạ giá công gặt. Ở Quất Lâm (Giao Thuỷ), nông dân kéo đến gặt lúa ở một số ruộng địa chủ cường hào chiếm đoạt. Tháng 7-1931, nông dân nhiều nơi nổi lên đấu tranh chống thuế.
Mục tiêu đấu tranh của nông dân lúc đầu là chống địa chủ, cường hào, đòi quyền lợi kinh tế, dần tiến tới chĩa mũi nhọn vào chính quyền thống trị, chống lại chính sách bóc lột dã man của chúng. Hình thức đấu tranh cũng với mức độ cao, từ kiện cáo hợp pháp, bỏ việc làm cho địa chủ tiến lên biểu tình có vũ trang tự vệ. Tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh khất sưu, thuế vào giữa năm 1931 của 10 cơ sở đảng thuộc 4 phủ, huyện (Ý Yên, Phong Doanh, Nghĩa Hưng, Xuân Trường).
Ở An Cừ (Ý Yên), chi bộ Đảng đã vận động được khoảng 50 đến 60 người ký đơn, cử đại biểu đưa đơn ra tận Toà sứ Nam Định. Toà sứ đã phải sức giấy về cho tri huyện bắt phải chấp nhận yêu cầu của quần chúng. Tại thôn Giáp Nhất (Phong Doanh), các đảng viên đã huy động đông đảo quần chúng biểu tình lên huyện lỵ. Tri huyện sở tại phải về tận nơi giải quyết, ở miền bắc Nghĩa Hưng, cuộc đấu tranh còn phối hợp giữa nhiều thôn như Phúc Chỉ, Thức Vụ, Đống Cao tập hợp hàng trăm quần chúng biểu tình lên phủ lỵ làm áp lực đòi tri phủ phải giải quyết yêu sách.
Nhà số 191 phố Hàng Cấp (nay là Hàn Thuyên, TP Nam Định). Địa điểm giao nhận cuốn "Đường cách mệnh".
Năm 1976 đồng chí Nguyễn Lương Bằng và đồng chí Nguyễn Văn Hoan thăm lại di tích này.
Quyết liệt hơn cả là cuộc biểu tình phối hợp của ba thôn Lạc Nghiệp, Hội Khê Ngoại và Quất Lâm Hạ (Xuân Trường) vào ngày 26-7-1931 với hàng trăm người tham gia. Nhân dân đã dùng đòn gánh, gậy gộc làm vũ khí tự vệ định kéo lên Toà sứ đấu tranh. Do thiếu cảnh giác nên kế hoạch bị lộ. Cả ba đoàn đều không lên được đến Toà sứ. Có đoàn đang đi bị địch chặn lại, bắt tống lên xe đưa trở lại địa phương. Tuy vậy, cuộc đấu tranh đó đã buộc địch phải thoả mãn một phần yêu sách của quần chúng như ở Lạc Nghiệp, Quất Lâm Hạ chúng không thu được sưu, phải giảm các khoản phụ thu và phai thả tât ca những người bị bắt. Địch ra sức bưng bít nhưng tin tức và ảnh hưởng chính trị của cuộc biểu tình loang nhanh khắp nơi. Các báo chí công khai đương thời đều đưa tin.
Phong trào sôi nổi của công nhân và nông dân đã thúc đẩy phong trào thanh niên, học sinh, ở Trường Thành Chung (thành phố Nam Định), học sinh đã đấu tranh phản đối một số giáo sư người Pháp có hành động thô bỉ, xúc phạm đến nhân phẩm và lòng tự trọng dân tộc của học sinh Việt Nam. Một số học sinh giác ngộ đã tích cực tham gia nhiều hoạt động cách mạng như rải truyền đơn, diễn thuyết, phát hành báo chí cách mạng, góp phần làm sôi động thêm phong trào đấu tranh cách mạng.
Trong quá trình tổ chức lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, các cán bộ, đảng viên được thử thách, rèn luyện, các tổ chức Đảng không ngừng phát triển, lớn mạnh. Số đảng viên được kết nạp ngày càng nhiều. Theo báo cáo của Đảng lúc này, tình hình phát triển đảng viên và quần chúng cách mạng ở Nam Định từ tháng 10 đến tháng 12-1930 như sau:
* Ở thành phố
Tháng 10 |
Tháng 12 |
|||
Chi bộ |
Đảng viên |
Hội viên Công hội |
Đảng viên |
Hội viên Công hội |
Máy dệt |
8 |
52 |
6 |
30 |
Máy chiếu |
3 |
0 |
4 |
5 |
Máy sợi |
1 |
(Tài liệu in không rõ) |
14 |
180 |
Áo xanh |
10 |
26 |
2 |
15 |
Máy điện |
7 |
8 |
9 |
8 |
Máy rượu |
7 |
45 |
7 |
38 |
Máy tơ |
5 |
25 |
2 |
0 |
Máy chiếu |
0 |
0 |
2 |
0 |
Thất nghiệp |
0 |
0 |
11 |
|
Học sinh |
15 |
0 |
15 (TNĐ) |
|
Đường phố |
10 |
|
8 |
|
Bồi |
0 |
0 |
4 |
12 |
Linh tình |
0 |
0 |
15 |
0 |
Phụ nữ |
6 |
|
|
|
Tổng cộng |
72 |
156 |
84 |
288 |
* Ở nông thôn
Huyện Ý Yên có 36 đảng viên, 73 hội viên Nông hội
Huyện Phong Doanh có 4 đảng viên, 4 hội viên Nông hội
Huyện Vụ Bản có 12 đảng viên, 31 hội viên Nông hội
Huyện Mỹ Lộc có 10 đảng viên, 41 hội viên Nông hội.
Các huyện Xuân Trường, Giao Thuỷ, Trực Ninh, Nam Trực lúc này cũng đều đã có chi bộ Đảng.
Đến tháng 3-1931, số đảng viên toàn tỉnh lên tới 150 người thuộc 16 nhà máy, trường học, đường phố; 30 thôn xã của 6 huyện (Ý Yên, Phong Doanh, Xuân Trường, Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Mỹ Lộc) đã có cơ sở Đảng. Bên cạnh việc ra sức xây dựng cơ sở Đảng, Đảng bộ vẫn hết sức quan tâm xây dựng các tổ chức quần chúng của công nhân, nông dân và thanh niên học sinh, lấy đó làm nơi rèn luyện, tập hợp rộng rãi quần chúng. Đến tháng 4-1931, Nam Định có 293 đoàn viên Công hội, 100 hội viên Nông hội. Đó cũng chính là cái cầu liên hệ giữa quần chúng ngoài tổ chức, đồng thời là nơi lựa chọn để kết nạp đảng viên mới.
Công hội được phát triển ở hầu hết các xí nghiệp, số lượng hội viên đã có tới hàng trăm người. Có nhà máy hầu hết công nhân đều tham gia Công hội như Nhà máy sợi có 100% hội viên, Nhà máy đèn có 45/52 thợ tham gia. Tổ chức Công hội thực sự trở thành nòng cốt cho các cuộc đấu tranh của công nhân chống chế độ tư bản thực dân.
Nông hội đỏ phát triển rộng khắp vùng nông thôn. Riêng huyện Ý Yên, đến tháng 3-1931 đã có 87 hội viên. Các huyện Phong Doanh 13 hội viên, Nghĩa Hưng 9 hội viên, Xuân Trường 40 hội viên, Mỹ Lộc 65 hội viên. Tuyệt đại bộ phận hội viên là bần, cố nông. Nông hội đỏ hoạt động mạnh hơn cả là ở An Cừ, Lỗ Xá (Ý Yên), Lạc Nghiệp (Xuân Trường).
Ngoài Công hội, Nông hội, tổ chức Học sinh đoàn, Thanh niên Cộng sản đoàn cũng được thành lập trong các trường Thành Chung, Cửa Bắc, Tương Lai. Cứu tế đỏ và Hội Phụ nữ cũng hình thành ở nhiều nơi. Ở nông thôn, Đảng bộ còn có sáng kiến lập tổ chức quần chúng biến tướng như Hội hiếu ở Giáp Nhất (Phong Doanh), Hội cấp ở An Hoà, Hội đọc sách báo ở An Cừ, Xuất Cốc, Hội chơi đèn ở Tiêu Bảng (Ý Yên), Hội góp ống ở Hội Khê Ngoại, Quất Lâm Hạ (Xuân Trường). Sáng kiến này tạo khả năng tập hợp đoàn kết quần chúng.
Công tác xây dựng Đảng, công tác tư tưởng trong thời kỳ đầu tuy còn nhiều hạn chế nhưng Đảng bộ đã thông qua việc học tập, nghiên cứu, trao đổi các tài liệu chính trị của Đảng như các văn kiện thành lập Đảng, Luận cương chính trị, báo chí cách mạng của Đảng từ nước ngoài gửi về và sách báo cách mạng trong nước-khi đó có các báo Dân cày, Tiền phong của địa phương, thơ ca yêu nước cách mạng,... để nâng cao nhận thức cho đảng viên về chủ nghĩa cộng sản, tinh thần quốc tế vô sản và đường lối cách mạng của Đảng, góp phần quan trọng thống nhất tư tưởng, hành động trong Đảng bộ nhằm giúp Đảng bộ lãnh đạo đấu tranh giành thắng lợi trong cao trào cách mạng 1930-1931.
Từ thực tế cuộc sống mất nước, lại được Đảng tuyên truyền, giáo dục tinh thần dân tộc trong các tầng lớp nhân dân được khơi dậy, lực lượng quần chúng được tổ chức đông đảo tạo thành sức mạnh to lớn xung quanh Đảng. Cho nên dù trong hoàn cảnh địch thường xuyên vây ráp, bắt bớ, dù phải hy sinh tính mạng, quần chúng vẫn một lòng, một dạ bảo vệ Đảng, nuôi giấu cán bộ, nhờ vậy mà Đảng bộ đã tồn tại, phát triển và hoạt động ngay trước nanh vuốt kẻ thù.
Trong những năm 1930-1931, thực dân Pháp ra sức tìm cách triệt phá phong trào cách mạng. Chúng dùng chính sách hai mặt: vừa ra sức xoa dịu, mua chuộc, vừa đẩy mạnh lùng sục bắt bớ, đàn áp dã man. Chúng xuyên tạc đường lối cách mạng của Đảng, gieo rắc sự nghi ngờ trong Đảng và quần chúng nhân dân, lừa bịp công nhân thành lập cái gọi là Hội đồng hoà giải giữa chủ với thợ, đưa tay chân vào các tổ chức cách mạng để phá hoại nội bộ, moi tin tức, cấu kết với bọn cường hào địa chủ và những tên phản động đội lốt tôn giáo như trường hợp Vũ Đình Nhã khoác áo linh mục ở Phú An (Trực Ninh) để dò xét và chống phá cách mạng.
Các thủ đoạn trên mới chỉ là khúc dạo đầu trong chính sách khủng bố, đàn áp của chúng. Từ đầu năm 1931, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành khủng bố trắng hết sức tàn bạo.
Tháng 3-1931, trong một báo cáo, Đảng đã chỉ rõ: "ở nông thôn, đế quốc khủng bố tất cả các địa phương, tất cả những người tình nghi đều bị bắt. Điếm canh mọc khắp nơi, khách qua đường đều bị xét hỏi bất cứ lúc nào. Ở thành phố, địch lùng sục, bắt bớ liên tục, nhất là những khu lao động. Đình chùa bị lính khố xanh chiếm đóng. Các viên hộ phố phải có trách nhiệm luôn khám xét những người ở thuê.
Tại địa phương, giữa năm 1931 có gần 200 quần chúng ở nông thôn bị mật thám gọi tra hỏi, lập căn cước theo dõi để đe doạ. Trường Tương Lai ở thành phố bị đóng cửa vì có hiệu trưởng và nhiều học sinh hoạt động cách mạng. Trong hai năm 1930-1931, địch đã bắt gần 200 cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng, trong đó có nhiều đồng chí là tỉnh uỷ viên, cán bộ cốt cán trong tỉnh và hầu hết đảng viên ở thành phố để đưa ra toà Nam án xử thật nặng bằng hình luật Gia Long.
Trước tình hình đó, Đảng bộ đã có nhiều biện pháp bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng như giáo dục tinh thần cảnh giác, nêu cao khí tiết người cộng sản cho đảng viên; quy định những thủ tục về mặt tổ chức để bảo vệ Đảng, tổ chức đội tự vệ bảo vệ hoạt động của cách mạng, đánh tháo cho người bị bắt... Do đó, đối với hàng chục vụ bắt có tang chứng, địch vẫn không khai thác được bí mật của Đảng. Nhiều cán bộ đã nêu gương kiên trung bất khuất trước sự tra tấn dã man và âm mưu xảo quyệt của kẻ thù.
Cũng như Tống Văn Trân, đồng chí Trần Văn Sửu - Bí thư Tỉnh uỷ đã trả lời thẳng bọn mật thám: "Nếu các ông không làm quan thì óc cũng đổi làm cộng sản. Tôi là con nhà cách mạng, đã hy sinh tính mạng thì không sợ chết". Đồng chí Trần Đình Quỳ bị đánh đến phát điên nhưng mỗi khi bệnh nặng đồng chí lại hát Quốc tế ca và hô khẩu hiệu "Đả đảo đế quốc". Đồng chí Ngô Huy Ngụ cũng luôn luôn hát những bài ca cách mạng, bị chúng lấy búa đánh gẫy răng.
Trong tù, đồng chí đã tổ chức chi bộ nhà tù, ra báo Người tù động viên đảng viên, tập hợp quần chúng giữ vững tinh thần lạc quan chiến đấu. Đồng chí Trần Đình Quỳ và Ngô Huy Ngụ đã anh dũng hy sinh trong lao tù đế quốc. Đồng chí Trần Như Cảnh bị địch đánh gần chết vẫn không hề nao núng. Liệu sức mình không sống nổi, đồng chí đã lừa tên thanh tra mật thám Đờloóc vào buồng điện để lấy tài liệu cộng sản. Khi hắn mắc mưu đồng chí đã ôm choàng nắm lấy tay dí vào dây điện định giết chết luôn cả tên mật thám gian ác; nhưng vì nắm tay vào dây nguội nên Đờloóc thoát chết- còn đồng chí do bị đánh đập dã man nên đã hy sinh trong nhà tù. Đồng chí Vũ Huy Hào - cán bộ lãnh đạo chủ chốt của tỉnh từ năm 1927 bị địch bắt đi bắt lại đến sáu lần; đồng chí Trần Văn Mặc bị bắt ba lần, bị tra tấn dã man nhưng các đồng chí vẫn kiên quyết không khai báo, bảo vệ cơ sở bí mật của Đảng, giữ vững phong trào.
Sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản là tấm gương sáng, đã gieo mầm cho sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng bộ và nhân dân Nam Định.
Trong hoàn cảnh Đảng bộ vừa mới ra đời, lại phải đối phó với một tên thực dân đế quốc cáo già, nhiều mưu mô xảo quyệt và kinh nghiệm chống phá cách mạng trên phạm vi quốc tế, do đó những thiếu sót và hạn chế của Đảng bộ là khó tránh khỏi. Vào lúc phong trào cả nước bị địch khủng bố dữ dội, Đảng bộ Nam Định cũng chịu tổn thất lớn.
Ngày 27-3-1930, địch vây cơ quan Tỉnh uỷ ở Khoái Đồng giữa lúc các đảng viên Nam Định nghe đồng chí Nguyễn Trọng Đàm, Xứ uỷ viên phụ trách phong trào Nam Định truyền đạt Luận cương chính trị. Ngày hôm sau, địch tiếp tục vây bắt cơ quan ấn loát ở 54 Hàng Thao, thu được nhiều dụng cụ in ấn và mấy thúng truyền đơn. Tháng 4, địch phá cơ quan giao thông ở phố Bến Củi.
Qua các vụ bắt bớ này, đồng chí Xứ uỷ viên phụ trách Nam Định, hầu hết Ban Tỉnh uỷ và trên một chục cán bộ, quần chúng cách mạng bị bắt.
Ngày 15-8-1931, địch tấn công vào các cơ sở cách mạng ở Ý Yên, Phong Doanh, nơi có phong trào mạnh, bắt được đồng chí Nguyễn Doãn Chấp - Tỉnh uỷ viên cuối cùng và hàng chục đảng viên, quần chúng làm cho phong trào cách mạng ở vùng nông thôn cũng bắt đầu lắng xuống.
Cờ đảng treo ở nhà máy sợi Nam Định, trong dịp kỷ niệm Cách mạng tháng mười Nga (7-11-1930)
Sau khi Nghiêm Thượng Biền - Xứ uỷ viên bị bắt (22-5-1931) và khai báo, cơ quan Xứ uỷ Bắc Kỳ bị phá vỡ. Để tiếp tục chỉ đạo phong trào cách mạng chung toàn xứ, ngày 25-51931, đồng chí Trần Quang Tặng được phân công lập lại Xứ uỷ Bắc Kỳ và các cơ quan lãnh đạo cách mạng ở Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Hải Phòng. Mùa thu năm 1931, Xứ uỷ cử đồng chí Nguyễn Văn Long (Nguyễn Hữu Hoan) về chắp mối với một số đảng viên công nhân ở thành phố (Trần Trọng Hợp, Trần Công Tiến, Trần Văn Tạ, Bùi Thế Đạm, Mai Văn Khánh) để tổ chức cơ quan Tỉnh uỷ. Vì lực lượng quá mỏng nên lúc này hoạt động của Đảng bộ chỉ bó hẹp ở thành phố. Cả vùng nông thôn rộng lớn thiếu sự chỉ đạo của Đảng bộ. Nhưng cơ quan Tỉnh uỷ mới tái lập ở số 5 Hàng Tiện được vài tháng thì ngày 12-1-1931 địch vây cơ quan, bắt hầu hết cán bộ chủ chốt của Nam Định, trong đó có Bí thư Tỉnh uỷ Lê Công Thanh.
Nhiều đảng viên là người Nam Định hoạt động ở các nơi khác, thời gian này cũng bị sa vào tay địch. Đồng chí Bùi Lâm (Nguyễn Văn Dị - quê Vụ Bản) sau khi học xong trường Đại học Phương Đông, năm 1929 trở về Sài Gòn hoạt động trong tổ chức An Nam Cộng sản Đảng, trực tiếp phụ trách Công đoàn. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, đồng chí được cử làm Thường vụ Xứ uỷ Nam Kỳ. Tháng 2-1931, đồng chí được phái ra Bắc hoạt động, bị bắt ở Hải Phòng và bị kết án 5 năm khổ sai đày đi Côn Đảo. Đồng chí Vũ Thiện Chân từ cơ sở ấn loát của Xứ uỷ Bắc Kỳ tại Hạ Lý (Hải Phòng), cuối năm 1930 được phân công về Nam Định, đầu năm 1931 cũng bị bắt và đày ra Côn Đảo. Từ đây phong trào cách mạng Nam Định tạm lắng.
Vừa mới ra đời, Đảng bộ Nam Định đã kịp thời phát động các tầng lớp nhân dân trong tỉnh kiên quyết đứng lên, đoàn kết thống nhất phối hợp đấu tranh dưới ngọn cờ của Đảng, đẩy phong trào quần chúng phát triển lên đỉnh cao, mở đầu cho cao trào cách mạng 1930-1931 trong cả nước. Qua cao trào đấu tranh, Đảng bộ đã xây dựng được khối công nông liên minh vững chắc làm nòng cốt cho quá trình đấu tranh cách mạng sau này.
Thắng lợi đó đã khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và sự vận dụng sáng tạo, kịp thời của Đảng bộ Nam Định; uy tín của Đảng ngày càng ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân, mối quan hệ giữa Đảng với dân trở nên khăng khít, gắn bó. Đảng bộ Nam Định đã xác định được vai trò tiền phong chiến đấu của mình trong tiến trình cách mạng ở địa phương.
Tuy nhiên, trong quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện, Đảng bộ còn thiếu kinh nghiệm hoạt động bí mật, chưa đặt công tác bồi dưõng lý luận cho cán bộ, quần chúng một cách có hệ thống, thường xuyên... Những khuyết điểm khó tránh khỏi trong thời kỳ mới thành lập, lại vấp phải sự đàn áp thẳng tay của thực dân Pháp đã khiến cho Nam Định - một trung tâm đấu tranh của phong trào công nhân chịu nhiều tổn thất.
II. KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO CÁCH MẠNG (1932-1939)
Sau khi dập tắt ngọn lửa Xô viết Nghệ - Tĩnh, thực dân Pháp quyết tâm tiêu diệt Đảng Cộng sản và dìm phong trào cách mạng Việt Nam trong biển máu. Để đạt được mục đích ấy, thực dân Pháp sử dụng chính sách hai mặt: khủng bố, tàn sát đi đôi với lừa bịp, mị dân.
Chính sách hai mặt ấy được thi hành ở Nam Định trong một bối cảnh kinh tế, xã hội hết sức khó khăn càng làm cho tình hình mọi mặt ở địa phương ngày càng căng thẳng, ngột ngạt.
Hứng chịu hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) và sự bóc lột của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân Nam Định sa sút nghiêm trọng. Giá một thùng thóc 12 kg chỉ có 12 xu, bằng 2/5 giá thóc trước đây nhưng thuế đinh một người dân phải nộp 2đ50 một năm. Một tạ muối chúng chỉ trả cho diêm dân 0đ60 nhưng chúng bán ra thị trường với giá 3đ20. Chúng khuyến khích mở sòng bạc, bán rượu cồn Phôngten, thuốc phiện ở khắp mọi nơi. Trong khi đó, chúng bắt tất cả những người nấu rượu lậu, bán muối lậu, buộc mọi người phải tập trung mua các mặt hàng do chúng độc quyền, thậm chí còn bắt buộc dân phải mua rượu Phôngten theo chỉ tiêu hằng tháng. Bọn quan lại cường hào được thực dân Pháp dung dưỡng, tha hồ vơ vét bóc lột (phù thu lạm bổ, thuế má, chiếm đoạt công điền), tìm cớ đục khoét nhân dân. Có khi chúng còn bỏ nồi nấu rượu, bã thuốc phiện vào ruộng vườn, thổ cư của dân rồi vào khám xét bắt đưa về huyện khảo tra kiếm chác. Thủ đoạn "bốc lửa bỏ tay người" này gọi là tiêu xưng, có lợi cho chính sách độc quyền của thực dân Pháp. Bọn quan lại cũng nhờ đó móc tận đáy hầu bao của quần chúng nghèo khổ. Nông dân hết đường sinh sống phải tha phương kiếm việc làm. Trong điều kiện ấy, những công ty cao su bỏ tiền cho vay, ký hợp đồng mộ phu vào các đồn điền cao su ở miền Nam và Campuchia. Nhiều người Nam Định rời bỏ quê hương ra đi theo các hợp đồng mộ phu mà không có hy vọng ngày về.
Cuộc sống ở thành thị cũng trở nên tiêu điều, xơ xác. Chủ tư bản Pháp sa thải hàng loạt công nhân, nhất là ở Nhà máy sợi. Chúng hạ 30-40% mức lương, tăng giờ làm từ 12 lên 15 giờ một ngày. Nhiều nhà máy chỉ còn hoạt động thoi thóp. Nhà máy chăn Macôlô trước chạy 22 máy, nay chỉ chạy 6 máy và chỉ làm việc 5 ngày/ tuần. Cuộc khủng hoảng ở chính quốc kéo theo sự đình đốn của công nghiệp thuộc địa từ năm 1932 đến năm 1935.
Giữa lúc nền kinh tế địa phương sa sút, đời sống nhân dân bần hàn, thực dân Pháp lại thẳng tay khủng bố đẫm máu hòng tiêu diệt tận gốc phong trào cách mạng. Tại Nam Định, chúng lập các trạm kiểm soát, bắt tất cả những người bị tình nghi là có hoạt động cách mạng hoặc liên quan tới cách mạng. Hàng trăm người bị giam cầm. Không khí khủng bố bao trùm cả thành thị và nông thôn. Các cán bộ may mắn thoát khởi sự vây bắt của kẻ thù thì mất liên lạc với Đảng. Nhiều đồng chí phải tạm lánh đi nơi khác hoặc nằm im để giữ bí mật.
Những chiến sĩ cách mạng bị địch bắt hầu hết giữ vững khí tiết cách mạng, thà chết chứ không chịu đầu hàng khai báo. Đồng chí Trần Quang Tặng, Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ bị chúng tra điện và dùng dùi nung đỏ làm cho cháy thịt da nhưng vẫn kiên trung bất khuất. Nhiều chiến sĩ cách mạng Nam Định bị địch đày đi các nhà tù Côn Đảo, Hoả Lò, Sơn La, Bắc Mê. Ở bất cứ nơi đâu, các đồng chí cũng cùng tập thể tù nhân biến nhà tù thành Trường học rèn luyện ý chí chiến đấu, nâng cao trình độ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, chống lại chế độ hà khắc của nhà tù đế quốc. Nhờ đó, thời gian trong tù cũng là lúc các chiến sĩ cách mạng trưởng thành về mọi mặt. Nhiều đồng chí thoát khỏi nhà tù đế quốc trở về đã trở thành những cán bộ dày dạn kinh nghiệm, làm lực lượng nòng cốt để phục vụ phong trào sau khủng bố trắng.
Tuy chưa khôi phục được cơ quan lãnh đạo của tỉnh nhưng số đảng viên còn lại vẫn được quần chúng nuôi giấu, chờ dịp tiếp tục hoạt động. Một số đảng viên phải tạm lánh sang tỉnh bạn đã bắt liên lạc với các tổ chức đảng ở đó để hoạt động rồi bí mật liên lạc với các đồng chí ở trong tỉnh góp phần nối sự liên lạc giữa hai địa phương với nhau để phối hợp hoạt động. Trên địa bàn Ý Yên, Nghĩa Hưng, Vụ Bản, các đồng chí Nguyễn Doãn Chấp (nguyên tỉnh uỷ viên), Nguyễn Văn Ry (nguyên Bí thư chi bộ huyện), Vũ Khế Bật (nguyên cán bộ Tỉnh uỷ Nam Định) và một số đồng chí khác đã liên lạc được với nhau đi về ba huyện xây dựng cơ sở cách mạng ở các thôn Hương Nghĩa (Minh Thuận, Vụ Bản), Phúc Chỉ, Lương Xá, Tống Xá, Thức Vụ, Vụ Sài, Chanh Cầu, Đống Cao (nay thuộc các xã Yên Thắng, Yên Cường, Yên Phúc, Yên Lộc huyện Ý Yên).
Đêm 24-12-1932, bảy cán bộ của Đảng vượt ngục Hoả Lò (Hà Nội) trong đó các đồng chí Nguyễn Trọng Đàm, Bùi Xuân Mẫn, Phạm Quang Lịch, Nguyễn Tạo và Lê Đình Tuyển, được đồng chí Vũ Khế Bật đưa về Vụ Bản sau đó chuyển tiếp về vùng bắc Nghĩa Hưng, An Cừ (Ý Yên). Các đồng chí đã được cơ sở Đảng và nhân dân địa phương hết lòng nuôi dưỡng chăm sóc, bảo vệ. Sau một thời gian phục hồi sức khoẻ, các đồng chí cùng với cơ sở Đảng địa phương tổ chức hoạt động, gây dựng phong trào.
Đồng chí Phạm Quang Lịch- nguyên là cán bộ của Thái Bình được cơ sở An Cừ (Ý Yên) nuôi dưỡng, bảo vệ gần một năm trước sự săn lùng ráo riết của kẻ thù. Tại đây đồng chí đã cung cấp, hướng dẫn cho cơ sở tài liệu Duy vật lịch sử, Quy luật mâu thuẫn hoặc trao đổi kinh nghiệm đấu tranh ở nhà tù và trong quá trình rèn luyện, bồi dưỡng khí tiết cách mạng. Đồng chí đã nhiều lần trở lại Thái Bình, Nam Định để chắp nối đường dây liên lạc.
Các đồng chí Lê Đình Tuyển ở Chanh Cầu; Nguyễn Tạo và Nguyễn Trọng Đàm ở Phúc Chỉ tuy chỉ có một thời gian ngắn nhưng đã mở được những lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cho địa phương. Kẻ địch đã dò tìm các gia đình nuôi dưỡng, che giấu cán bộ để bắt, tra tấn và giam cầm rất dã man, trong đó các đồng chí Nguyễn Văn Mẫn, Trịnh Văn Đản (Thức Vụ), Trần Văn Kỉnh (Vụ Sài), Nguyễn Văn Ri (Văn Cú), Nguyễn Thế Nghi (Phúc Chỉ ), Vũ Trọng Soạn (Chanh Cầu) bị giam cầm từ một đến bốn năm. Nhiều gia đình khác ở Vụ Sài cũng bị địch khủng bố, đe doạ.
Chiếc máy chém mà thực dân Pháp dùng để chém đầu những chiến sĩ yêu nước từng bị bắt giam tại nhà tù Hỏa Lò.
Cũng năm 1932, các đồng chí ở Ý Yên còn mở lớp huấn luyện chính trị cho đảng viên và quần chúng cốt cán tại nhà đồng chí Đinh Viết Lãng (An Cừ), giảng viên là đồng chí Phạm Quang Lịch, thu hút được nhiều quần chúng tham gia và bảo đảm giữ bí mật. Lớp học kéo dài mãi tới năm 1933. Khi đồng chí Phạm Quang Lịch chuyển đi nơi khác mới ngừng hoạt động. Những đảng viên, quần chúng cốt cán qua lớp huấn luyện đã nâng cao tinh thần cách mạng, sự hiểu biết về phương pháp vận động đấu tranh và củng cố thêm lòng yêu nưóc của mình.
Tại Xuân Trường, Chi bộ Lạc Nghiệp đã tự động phát động quần chúng chống bọn địa chủ cường hào xâm phạm quyền lợi, bóc lột nông dân một cách nặng nề. Năm 1933 Chi bộ đã vận động nông dân trong thôn ký đơn kiện, cùng nhau không chịu nộp thuế để làm áp lực. Chính quyền Pháp cho binh lính về bắt những người mà chúng nghi là cầm đầu. Quần chúng tiếp tục biểu tình phản đối. Nhiều người nằm lăn ra đường cản không cho xe địch chở những người bị chúng bắt về tỉnh. Trước sự đoàn kết đấu tranh của nhân dân địch buộc phải nhượng bộ, thả hết những người bị bắt và đồng ý giảm thuế đinh từ 2đ50 xuống 2đ00. Nhân thắng lợi này, Chi bộ vận động nhân dân tiếp tục đấu tranh buộc bọn hương lý phải bỏ các khoản lạm bổ và công khai thu thuế ở đình làng; huy động quần chúng ngăn chặn bọn cường hào âm mưu ăn tiền xẻ đê Thanh Quan cho thuyền buôn ra vào làm thiệt hại đến mùa màng, cả hai cuộc đấu tranh trên đều giành được thắng lợi. Kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động, một số đồng chí đảng viên còn khéo léo thuyết phục hào lý sở tại đồng ý cho "mở chợ để cải thiện dân kế, dân sinh". Phiên chợ đầu tiên đã thu hút nhân dân đến khai chợ rất đông giống như một cuộc biểu dương lực lượng cách mạng. Đảng vien ở Quất Lâm (Giao Thuỷ) còn tổ chức cho nhân dân vạch trần những thủ đoạn câu kết của cường hào, hương lý chiếm đoạt công điền, buộc chúng phải trả lại cho dân làng. Các đồng chí đảng viên đã lãnh đạo diêm dân đấu tranh chống lại Tây đoan vạch tội ác buộc thực dân Pháp phải điều tên phó đoan đi nơi khác vì diêm dân luôn luôn bị đe doạ bởi sự lùng sục bắt bớ những người làm muối "lậu", bị bắt chẹt trả giá muối rất hạ, đến kỳ thanh toán tiền công còn gây khó khăn.
Trong năm 1933, khi Bảo Đại về dự Hội chợ Nam Định, học sinh đã có phong trào lột mặt nạ và phá cuộc đón tiếp ông vua bù nhìn này. Năm 1934, học sinh cùng một số binh lính yêu nước vận động nhân dân tẩy chay không đi xem một gánh xiếc ngoại quốcxúc phạm đến danh dự của dân tộc Việt Nam.
Sang năm 1934-1935, phong trào cách mạng ở địa phương dần dần được hồi phục. Các chi bộ Đảng đã xây dựng được những tổ chức quần chúng công khai dưới các hình thức biến tướng như hội hiếu, phường bát âm (Vụ Bản, Ý Yên), hội học chữ, hội đọc sách báo, hội đá bóng, hội dân giáp, hội tương tế, hội ống, nhóm chơi họ, nhóm học võ. Tại Nhà máy sợi (thành phố Nam Định) và các huyện Nam Trực, Trực Ninh, Hải Hậu, Xuân Trường, Giao Thuỷ, các hội này làm cho nhân dân nhận rõ tệ tham ô, hối lộ của quan lại, kỳ hao; các hủ tục, thói hư, tật xấu trong xã hội; nâng cao tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hỗ trợ nhau khi có công việc.
Việc truyền bá tư tưởng cách mạng tuy bị hạn chế trong phạm vi cơ sở tự đảm nhiệm, thiếu tài liệu, sách báo và sự chỉ đạo chung của Đảng, nhưng có những ảnh hưởng tích cực. Nhóm thanh niên tiến bộ ở Trường Kiêm bị (Nam Trực) là Đặng Hữu Rạng (Đặng Việt Châu), Đặng Hữu Tiệp, Trần Văn Cử, Chu Văn Hiến, Đoàn Văn Thảo do chịu ảnh hưởng trực tiếp tư tưởng cách mạng của Đảng đã ra các tờ báo Phận sự, Ngọn đèn xanh với tôn chỉ là cổ động cho thanh niên hiểu biết phận sự của mình đối với Tổ quốc, lưu hành bí mật trong nhà trường và truyền đến tay một số thanh niên trong huyện nhằm khêu gợi lòng yêu nước thương nòi, vạch mặt chỉ tên kẻ thù của dân tộc là đế quốc, tay sai. Báo đã có tác dụng tích cực đối với nhiều thanh niên ở Nam Trực lúc đó.
Đây cũng là thời điểm phong trào cách mạng trong cả nước dần dần hồi phục. Đầu năm 1934, Ban lãnh đạo của Đảng ở hải ngoại được thành lập, do đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư, với chức năng của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, đã đào tạo cán bộ đưa về nước, thành lập các Xứ uỷ, ráo riết chuẩn bị cho việc mở đại hội. Từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935, Đại hội lần thứ I của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc) đã ra Nghị quyết về công tác xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố các tổ chức quần chúng, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô và thông qua Nghị quyết chính trị và Điều lệ Đảng...
Lúc này ở Nam Định, số đảng viên mãn hạn tù trở về địa phương hoạt động ngày càng tăng. Hầu hết các huyện đều có các đảng viên và nhiều nơi các cơ sở Đảng đã tích cực hoạt động, công cuộc khôi phục và phát triển phong trào có nhiều chuyển biến. Tuy vậy, cơ quan lãnh đạo chung chưa được phục hồi, chưa có sự thống nhất chỉ đạo trong toàn tỉnh. Các cơ sở Đảng vẫn hoạt động riêng biệt và tự động. Nhiều chỉ thị nghị quyết của Trung ương vì thế cũng chưa được phổ biến thông suốt tới cơ sở. Đòi hỏi cấp bách của phong trào lúc này là phải có một cơ quan lãnh đạo chung để mau chóng đón nhận, truyền đạt và hướng dẫn cho các cơ sở Đảng và các đảng viên những nhiệm vụ cần kíp trước mắt như công tác xây dựng Đảng, các tổ chức quần chúng và coi đó là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn thể cán bộ, đảng viên trong tỉnh.
Đồng chí Nguyễn Văn Hoan
Có thể nói mấy năm qua là thời kỳ vô cùng khó khăn của phong trào cách mạng Nam Định. Cơ sở Đảng và tổ chức quần chúng bị tổn thất nặng nề, cơ quan lãnh đạo của tỉnh bị phá vỡ, không liên lạc được với cấp trên. Mặc dù bị khủng bố dã man, nhân dân vẫn một lòng tin tưởng, bảo vệ, nuôi giấu cán bộ. Số đảng viên còn lại, tuỳ theo điều kiện cụ thể vẫn hoạt động và hướng dẫn quần chúng đấu tranh với những hình thức và yêu sách thích hợp. Một số đảng viên thoát khỏi nhà tù đế quốc, mang theo những kinh nghiệm học tập được ở "Trường học cộng sản" về địa phương bắt mối hoạt động cùng với các đảng viên cơ sở vực phong trào sống dậy một cách hiệu quả.
Nhờ Đảng gắn bó máu thịt với dân, nhờ những cố găng nỗ lực phi thường của các đảng viên và quần chúng cốt cán, trải qua những năm sóng gió của khủng bố trắng, từ cuối năm 1934 sang năm 1935 phong trào cách mạng toàn tỉnh dần dần được phục hồi, tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng dẫn dắt phong trào phát triển đến đỉnh cao trong thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939.
Ảnh hưởng sâu sắc của cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933 và sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tới mức đỉnh điểm đã dẫn tới các thế lực phát xít bành trướng ở nhiều nước tư bản. Chúng cấu kết với nhau thành thế lực phản động quốc tế chống chủ nghĩa cộng sản và gây nguy cơ chiến tranh thế giới mới.
Đối lập với chủ nghĩa đế quốc là lực lượng hoà bình dân chủ, tiến bộ hình thành một Mặt trận dân chủ chống phát xít, chống chiến tranh.
Từ cuối năm 1935, phong trào Mặt trận dân chủ chống phát xít đã diễn ra trên quy mô toàn thế giới, trong đó Liên Xô đóng vai trò trụ cột, tiên phong. Tháng 7-1935, Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản đã nhận định tình hình và xác định kẻ thù trước mắt, nguy hiểm nhất của nhân loại chưa phải là chủ nghĩa tư bản hoặc chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa đế quốc phát xít. Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân quốc tế chưa phải là đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa tư bản, giành chủ nghĩa xã hội mà là đấu tranh chĩa mũi nhọn vào chủ nghĩa phát xít và chống chiến tranh, giành dân chủ và hoà bình. Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản đã vạch ra đường lối chung đúng đắn cho phong trào cộng sản và được lực lượng yêu chuộng hoà bình thế giới ủng hộ.
Trong khi đó, cuộc đấu tranh của Mặt trận nhân dân Tây Ban Nha, Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật của Trung Quốc và nhất là của Mặt trận nhân dân Pháp đã có ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương.
Tại Pháp, tháng 5-1936, Đảng Cộng sản giành thắng lợi lớn trong cuộc tổng tuyển cử với 72 ghế trong Quốc hội.
Chính phủ cánh tả lên cầm quyền bao gồm phần lớn những người thuộc Đảng Xã hội và Đảng Cấp tiến do Lêông Bờlum- lãnh tụ Đảng Xã hội làm thủ tướng; Marixuýt, đảng viên Đảng Xã hội làm Bộ trưởng thuộc địa. Mặc dù Chính phủ Pháp vẫn nằm trong khuôn khổ một chính quyền tư sản, nhưng ra đời trong cao trào đấu tranh của nhân dân chống phát xít buộc họ phải thi hành một số quyền lợi cho quần chúng lao động ở trong nước và ở thuộc địa mà cương lĩnh của Mặt trận nhân dân đã đề ra. Lúc đó, Chính phủ Pháp đã phải ban bố một số cải cách quan trọng đối với các thuộc địa như ân xá chính trị phạm, lập uỷ ban điều tra và cử các phái đoàn đi điều tra ở các thuộc địa. Sự kiện này có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào cách mạng Việt Nam.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam cũng sôi nổi bước vào cao trào cách mạng mới.
Theo đường lối mà Quốc tế Cộng sản đã vạch ra, tháng 71936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương họp phân tích tình hình và quyết định: Nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và chống phong kiến của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Đông Dương mà Đảng đề ra từ khi thành lập không hề thay đổi. Nhưng mục tiêu trực tiếp của cách mạng trước mắt là tập trung lực lượng cách mạng, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn phản động thuộc địa Pháp và tay sai của chúng, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Để thực hiện mục tiêu ấy, Hội nghị chủ trương lập Mặt trận nhân dân phản đế (sau đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương) nhằm tập hợp mọi lực lượng dân chủ và tiến bộ, đấu tranh chống kẻ thù chủ yếu, trước mắt là bọn phát xít Pháp, bọn phản động thuộc địa Pháp và tay sai của chúng đòi tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh. Hội nghị cũng nêu hình thức và phương pháp đấu tranh là triệt để lợi dụng những khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên truyền, tổ chức quần chúng; đồng thời phát triển tổ chức bí mật của Đảng, kết hợp những hoạt động hợp pháp và không hợp pháp để phát triển Mặt trận dân chủ, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng. Hội nghị còn phê phán tư tưởng tả khuynh chỉ chú trọng đến công tác không hợp pháp mà phản đối công tác hợp pháp, chỉ biết công nông mà không chú trọng đến những bạn đồng minh rộng rãi, đồng thời cũng đề phòng tư tưởng hữu khuynh như buông lơi việc giáo dục nhiệm vụ chiến lược là phản đế, phản phong hoặc xa rời lập trường giai cấp, ngăn cản quần chúng đấu tranh với tư sản, địa chủ.
Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Trung ương Đảng đã vực phong trào cách mạng toàn quốc đang phục hồi lên một bước mới. Việc ban hành lệnh của Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ta đòi thả chính trị phạm trở thành yêu sách cấp thiết, hợp pháp và là một nhiệm vụ hết sức cấp bách của cách mạng. Trước làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, nhà cầm quyền Pháp buộc phải thả hàng ngàn tù chính trị, phải ban hành một số quyền dân chủ tối thiểu cho nhân dân ta.
Tình hình trên đã có tác động lớn tới phong trào cách mạng địa phương. Nhiều chính trị phạm người Nam Định là đảng viên và quần chúng bị giam cầm trong các nhà tù đế quốc được trả tự do. Những đồng chí trở về địa phương, bọn thống trị dùng hình thức quản thúc tại chỗ để theo dõi, giám sát, hằng tháng phải lên trình diện chính quyền địa phương. Mặt khác, chúng dùng quyền lợi vật chất để lôi kéo, mua chuộc, hy vọng làm lung lạc ý chí chiến đấu, làm cho họ rời bở lý tưởng cách mạng. Nhưng chúng đã bị thất bại trong âm mưu đó. Trừ một vài người thoái hoá, nhìn chung, nhà tù đế quốc chính là những trường học rèn luyện ý chí cách mạng, nâng cao trình độ giác ngộ lý luận và bồi dưõng những kinh nghiệm vận động cách mạng phong phú cho các chiến sĩ cách mạng. Vì vậy, các chính trị phạm thực sự là những cán bộ nòng cốt để xây dựng lại phong trào. Những đảng viên và quần chúng trung kiên ở các địa bàn trươcsđó phải rút vào bí mật để bảo toàn lực lượng, nay thời cơ đến đã nhanh chóng bắt mối hoạt động. Những cơ sở Đảng và quần chúng cách mạng được tạo dựng từ những năm 1930-1931 đang âm ỉ trong lòng nhân dân nay được khơi dậy, đã mau chóng trở thành những địa bàn cắm chốt, thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng.
Sự phục hồi hoạt động sớm nhất thuộc các cơ sở đảng ở thành phố Nam Định, Chi bộ Nhà máy sợi, các cơ sở ở Lạc Nghiệp, Đông An, Hạc Châu, Hội Khê Ngoại (Xuân Trương), Nam Lạng, Quỹ Đê (Trực Ninh), Hà Cát (Giao Thuỷ), Địch Lê (Nam Trực) trong đó Chi bộ Địch Lễ có tới 8 đảng viên.
Riêng các huyện Vụ Bản, Nghĩa Hưng, tuy cũng có một số đảng viên hoạt động nhưng việc xây dựng lại các chi bộ Đảng lại chậm.
Ở các địa bàn có phong trào từ những năm 1930-1931 đã tiếp tục hoạt động trở lại, nhưng công tác phát triển Đảng còn bị hạn chế vì thiếu sự chỉ đạo của tỉnh. Lúc này Xứ uỷ Bắc Kỳ đã cử đồng chí Trần Hoạt về Nam Định chắp mối và thống nhất phong trào toàn tỉnh, song vẫn chưa có đủ điều kiện để thành lập Tỉnh uỷ. Vì vậy, thời kỳ đầu, hầu hết các địa phương tự tổ chức hoạt động. Nhiều quần chúng trung kiên tích cực, hăng hái nhưng do hạn chế về mặt tổ chức nên chưa được kết nạp Đảng.
Tháng 5-1937, được sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, một số đảng viên mới được ra tù trở về địa phương như đồng chí Đặng Hữu Rạng, Đặng Xuân Thiểu, Trần Cung đã tổ chức cuộc họp với đại biểu của các tỉnh Thái Bình, Hà Nam tại thôn Thứ Nhất (nay thuộc xã Nam Hồng, Nam Trực) để thành lập Liên Tỉnh uỷ lâm thời Hà - Nam - Thái và bàn việc thành lập lại các ban Tỉnh uỷ của ba tỉnh, đồng thời quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 7-1936, về chuyển hướng hoạt động trong thời kỳ mới.
Sau Hội nghị này, Ban Tỉnh uỷ lâm thời Nam Định được hình thành gồm các đồng chí Đặng Hữu Rạng, Đặng Xuân Thiều, Trần Hoạt. Sau đó, Ban Tỉnh uỷ lại bổ sung thêm đồng chí Bùi Minh Hách và nữ đồng chí Liên (Minh Lãng) do đồng chí Đặng Hữu Rạng làm Bí thư Tỉnh uỷ. Một thời gian sau, Xứ uỷ điều động đồng chí Đặng Hữu Rạng phụ trách Liên Tỉnh uỷ C, đồng chí Trần Hoạt được cử làm Bí thư Tỉnh uỷ và chỉ đạo Ban Tỉnh uỷ tập trung vào những nhiệm vụ sau:
Đẩy mạnh việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng trong quần chúng; tăng cường cơ quan đại lý sách báo của Đảng, mở rộng quan hệ công khai giữa Đảng với quần chúng.
Thông qua các hình thức tổ chức hợp pháp, nửa hợp pháp rộng rãi để tập hợp đông đảo quần chúng thuộc các tầng lốp, các giai cấp, liên hiệp hành động với các tổ chức chính trị và cá nhân có thể tranh thủ được.
Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, chú ý phát triển Đảng để đảm bảo lãnh đạo phong trào quần chúng đang ngày càng mở rộng, đồng thời chú trọng xây dựng các tổ chức quần chúng không hợp pháp của Đảng.
Tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi, đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh bằng nhiều hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp đòi quyền dân sinh dân chủ.
Quán triệt nhiệm vụ đã đề ra, trên cơ sở các tổ chức Đảng được củng cố Ban Tỉnh uỷ chỉ đạo các chi bộ nhanh chóng thành lập các tổ chức quần chúng, đặc biệt chú trọng vận động thành lập nghiệp đoàn và các tổ chức ái hữu trong công nhân lao động. Căn cứ vào điều kiện hợp pháp lúc ấy, Ban Tỉnh uỷ Nam Định đã lãnh đạo công nhân dựa vào Luật lao động đã ban hành năm 1884 về thành lập nghiệp đoàn để đấu tranh công khai đòi thành lập nghiệp đoàn của công nhân nhưng bọn thống trị kiên quyết không chấp nhận. Dựa trên lời hứa của Saten là đồng ý cho công nhân lập ái hữu, công nhân một số nhà máy và một số ngành một mặt làm đơn đưa nhà cầm quyền, mặt khác xúc tiến thành lập ái hữu.
Nghĩa địa Hoa Kiều, thành phố Nam Định, nơi thành lập Ban Chấp hành Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên của tỉnh Nam Định, tháng 9-1927.
Đêm 25-9-1937, tại nghĩa trang Hoa kiều (thành phố Nam Định), một cuộc họp trù bị cho việc thành lập ái hữu công nhân Nhà máy sợi có trên 20 người dự, mở đầu cho việc lập ái hữu trong toàn tỉnh. Tiếp đó ái hữu đã được tổ chức ở khắp các công sở ở thành phố Nam Định như Nhà máy tơ, sở lục lộ, bồi bếp, thợ may, thợ mộc, thợ chạm, thợ thuỷ tinh... Tổ chức ái hữu còn lan sang cả học sinh các trường công, trường tư. Ở nông thôn, các vùng có nhiều thợ thủ công cũng dần dần hình thành các tổ chức ái hữu như ái hữu thợ dệt ở Hạc Châu, thợ làm ren ở Thọ Vực (Xuân Trường). Các ái hữu đều có trụ sở và hoạt động công khai. Tổ chức ái hữu không những quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần cho hội viên (tổ chức đám cưới, đám ma theo nghi thức mới, mở lớp học chữ, tìm công ăn việc làm cho hội viên,...) mà còn thông qua các buổi sinh hoạt để giáo dục chính trị, giáo dục ý thức giai cấp và giai cấp đấu tranh. Trong các cuộc họp của các ái hữu bao giờ cũng có các đảng viên dưới danh nghĩa là chính trị phạm tới dự và điều khiển cuộc họp: Thực chất ái hữu là tổ chức hoạt động công khai của Đảng, là cầu nối giữa Đảng và quần chúng. Hoạt động của ái hữu thực sự mang tính chất nghiệp đoàn, thu hút đông đảo quần chúng tham gia.
Ở nông thôn, các đảng viên còn vận động quần chúng thành lập các tổ chức quần chúng hợp pháp khác như Nông hội, Hội tương tế, Hội tư văn - học sinh đoàn, Hội âm nhạc (bát âm, trống ngũ lôi), Hội dân giáp, Hội cầu phúc... Các hội này phát triển rộng rãi ở Lạc Nghiệp, Đông An, Hạc Châu, Lạc Quần, Hội Khê Ngoại (Xuân Trường); Nam Lạng, Quỹ Đê (Trực Ninh); Hà Cát (Giao Thuỷ); Địch Lễ (Nam Trực); Hào Kiệt (Vụ Bản); Chanh, Vụ Sài, Đống Cao, Thức Vụ (Nghĩa Hưng).
Tổ chức Đoàn Thanh niên Dân chủ, một tổ chức trung kiên của thanh niên cũng đã được hình thành ở một số nơi như Trường Thành Chung (thành phố Nam Định - nơi trước đây có các hội viên Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đầu tiên ở Nam Định) nay lại có cơ sở Thanh niên Dân chủ khá mạnh. Tại Địch Lễ (Nam Trực), Đoàn Thanh niên Dân chủ có tới 15 đoàn viên. Đảng đã cử đồng chí Phan Đình Đống (Mai Chí Thọ) phụ trách Đoàn Thanh niên Dân chủ Nam Định.
Nhận xét về các hình thức tổ chức quần chúng công khai của Đảng trong thời kỳ này, trong báo cáo tình hình mọi mặt của tỉnh Nam Định từ ngày 30-6-1937 đến ngày 30-6-1938, Công sứ Lốtde phải thủ nhận: "Mấy năm nay, người ta thấy các hội này mở ra rất phong phú và đủ màu sắc. Đến nay, có tất cả 61 hội đã tuyên bố thành lập".
Tuy nhà cầm quyền Pháp ở thuộc địa phải để cho các tổ chức quần chúng hợp pháp hoạt động, công khai hội họp, tự do nghiên cứu sách báo cách mạng và tiến bộ, nhưng chúng vẫn tung tay sai thăm dò hoạt động của các tổ chức, dùng mọi biện pháp hạn chế không cho các tổ chức đó tiến dần sang lĩnh vực chính trị chống đối chúng. Riêng ở Nam Định, chúng cho Váckiê (Cố Cao), một tên mật thám đội lốt tu sĩ lập ra các tổ chức Thanh niên công nhân Công giáo, Thanh niên học sinh Công giáo nhằm lôi kéo các tầng lớp thanh niên tranh giành ảnh hưởng với cách mạng. Váckiê còn đưa ra luận điệu Lao tư hợp tác để chống phá cuộc bãi công tháng 2- 1937 của công nhân Nhà máy tơ và ra sức phản đối thi hành Luật lao động, nhất là điều khoản quy định ngày làm việc 8 giờ. Nhưng cao trào dân chủ đang dâng cao, những hoạt động của Váckiê không mang lại kết quả như chúng mong muốn.
Tổ chức quần chúng càng mở rộng thì công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chính sách của Đảng càng được truyền bá rộng rãi. Để nâng cao trình độ hiểu biết cho đảng viên và quần chúng cách mạng, các đảng viên chủ chốt ở Nam Định đã hết sức coi trọng lợi khí cách mạng là phổ biến các loại sách báo của Đảng và các sách báo tiến bộ khác.
Đầu tháng 2-1937, Đảng bộ Nam Định lập cơ quan Đại lý sách báo cánh tả đặt tại thành phố do đồng chí Phan Đình Khải (tức Lê Đức Thọ) và một số đồng chí khác được giao đặc trách công tác này. Ngoài ra còn một hiệu sách trung tâm tại 114 Pônbe, bán các loại sách báo tiến bộ đầu tiên do Lê Văn Phúc, chính trị phạm ở Côn Đảo được ân xá về phụ trách, sau chuyển giao cho đồng chí Nguyễn Đức Quỳ.
Từ đường chi Ất, họ Phan, thôn Địch Lễ, xã Nam Vân, T.P Nam Định, nơi thành lập chi bộ Cộng sản thôn Địch Lễ, tháng 2-1938.
Từ những đại lý này, sách báo của Đảng và các sách báo tiến bộ khác đã toả ra nhiều nơi trong tỉnh, nhất là những nơi có cơ sở và phong trào cách mạng như vùng cách mạng An Cừ (Ý Yên), Lạc Nghiệp, Thọ Vực (Xuân Trường), Địch Lễ (Nam Trực).
Ngoài nguồn sách báo do địa phương phát hành, một số nơi còn nhận được sách báo tiến bộ do các đảng viên người địa phương hoạt động tại Hà Nội chuyển về. Bên cạnh nhiệm vụ chuyển tải sách báo của Đảng tới tay quần chúng, các đảng viên tại địa phương còn viết sách, hồi ký như thiên Nhật ký tuyệt thực chín ngày rưỡi của đồng chí Phan Đình Khải, cuốn Vấn đề dân cày do đồng chí Trường Chinh cùng với đồng chí Võ Nguyên Giáp soạn thảo với bút danh là Qua Ninh, Vân Đình. Những cuốn sách trên đã được in, phát hành rộng rãi trong thời kỳ Mặt trận dân chủ. Các đại lý sách báo còn là nơi công khai tiếp dân của Đảng. Nhiều đại biểu của công, nông, trí thức đã tới đây hỏi những vấn đề thời sự, chính trị và đều được giải đáp thoả đáng, tin cậy.
Do yêu cầu phong trào ngày càng mở rộng, nhu cầu sách báo, tài liệu, ngày càng tăng, mặt khác cũng cần có tài liệu phổ biến chủ trương của Đảng bộ địa phương tới các cơ sở, Tỉnh uỷ Nam Định đã đặt một nhà in thủ công tại nhà đồng chí Phạm Bổn, thôn Lạc Nghiệp (Xuân Trường) vừa để in các tài liệu truyền đơn, báo chí của cấp trên chuyển về, vừa in tài liệu của Đảng bộ, đáp ứng kịp thời cho yêu cầu của phong trào, nhất là ở Trà Trung, Đông An, Thọ Vực, Hội Khê Ngoại, Xuân Bảng, Lạc Quần (Xuân Trường); Hoành Nha, Hà Cát (Giao Thuỷ). Nhiều truyền đơn còn được rải trên các trục đường chính ở các huyện như Ngô Đồng, Hà Cát, Thanh Hương (Giao Thuỷ); Lạc Quần, Trà Trung, Nam Điền (Xuân Trường).
Tháng 6-1938, Tỉnh uỷ Nam Định chủ trương ra tờ báo công khai bằng cách mua lại giấy phép của tờ An Nam thống chí của một nhà tư sản ở thành phố Nam Định. Mọi thủ tục, bài vở và các phương tiện ấn loát đã được chuẩn bị đầy đủ tại số nhà 58 phố Còlêmăngxô. Báo dự định sẽ in và ra mắt bạn đọc ngay trong tháng 6-1938, nhưng tên Váckiê phát hiện đây là tờ báo tuyên truyền cho Đệ tam quốc tế, bênh vực quyền lợi của vô sản và nhân dân lao động, chống phát xít, tòrốtkít và chống lại chính quyền (thống trị) nên đã cho mật thám Nam Định gọi đồng chí Vũ Huy Hào (người phụ trách tờ báo) tới đe doạ và đưa lệnh đình chỉ việc xuất bản tờ báo do Thống sứ Bắc Kỳ ký.
Trong hoàn cảnh sách báo công khai đang ngày càng bị địch cấm đoán, đầu năm 1939, Tỉnh uỷ Nam Định quyết định ra tờ báo bí mật lấy tên là Tiến lên làm phương tiện tuyên truyền, giáo dục đảng viên, quần chúng đồng thời lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Báo in litô, mỗi tháng ra một đến hai số. Cơ sở in báo Tiến lên còn in lại một số tài liệu của Xứ uỷ để phân phát cho các chi bộ và các tổ chức quần chúng trong tỉnh. Cơ sở in lúc đầu đặt tại Phù Long (ngoại thành Nam Định), về sau do địch tăng cường lùng sục, khủng bố, cơ quan in phải chuyển sang Thái Bình và trở thành cơ quan in của Liên Tỉnh uỷ C. Tờ Tiến lên vẫn được phát hành rộng rãi trong bốn tỉnh. Sau đó ít lâu, cơ quan báo lại chuyển về Nam Định, đặt tại nhà đồng chí Phan Đình Dinh (Đinh Đức Thiện) tại Địch Lễ, Nam Vân (Nam Trực). Đầu năm 1940, cơ quan in lại chuyển xuống Thọ Vực (Xuân Trường).
Cùng với việc tuyên truyền, phổ biến sách báo cách mạng tiến bộ, ở Nam Định còn thường xuyên tổ chức các cuộc mít tinh của quần chúng để nghe đảng viên nói chuyện thời sự, chính trị, vạch trần âm mưu tội ác của bọn phản động thuộc địa, tay sai cùng quan lại ác bá như những cuộc mít tinh ở Quán Ngói, Đô Quan, Phong Lộc (Nam Trực). Hàng trăm người ở Địch Lễ (Nam Trực), Giáp Ba (Vụ Bản) đã tập trung nghe đồng chí Hoàng Tùng và đồng chí Nguyễn Đức Thuận giới thiệu về Mặt trận Dân chủ Đông Dương, lên án bọn phản động thuộc địa Pháp và tay sai, hướng dẫn quần chúng tham gia vào cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh; dân chủ, chống áp bức bóc lột.
Thành phố Nam Định, nơi tập trung đông đảo công nhân, có Nhà máy sợi lớn nhất Đông Dương cũng là nơi châm ngòi cho các cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ trong thời kỳ này.
Ngày 31-10-1936, tên đốc công Gioócgiơman đánh truỵ thai một nữ công nhân ở xưởng dệt. Nhân sự việc này, các đảng viên trong nhà máy đã lãnh đạo công nhân đấu tranh với chủ, tổ chức cho gia đình chị làm đơn kiện lên Công sứ Nam Định. Cuộc đấu tranh đã được dư luận quần chúng trong thành phố biểu lộ sự đồng tình cao, buộc bọn thống trị phải xử phạt tên Gioócgiơman 8 tháng tù. Sự kiện chưa từng có này đã đánh một đòn nặng vào uy thế của chủ nhà máy và khơi dậy tinh thần đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ cho công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Chỉ tính từ ngày 31-10-1936 đến ngày 6 -10-1937, ngày nổ ra cuộc đấu tranh đòi bỏ thuế ngụ cư của thợ mộc, thợ chạm, tại thành phố Nam Định đã có 33 cuộc đấu tranh lớn, nhỏ của thợ thuyền. Đây là một kỷ lục về tổng số các cuộc đấu tranh nổ ra trong một năm từ trước tới bây giờ.
Nổi bật là cuộc đấu tranh có quy mô lớn chưa từng thấy của 8.000 công nhân Nhà máy sợi kéo dài hơn một tháng, từ ngày 2-2-1937 đến ngày 3-3-1937. Ngay từ đầu năm 1937, tổ chức Đảng của nhà máy quyết định sẽ tổ chức một cuộc đấu tranh lớn đòi bọn chủ phải thi hành Luật lao động 1884, tăng lương, bớt giờ làm, không được đánh đập công nhân; bảo đảm quyền tự do ngôn luận, hội họp, lập nghiệp đoàn của công nhân. Một Uỷ ban đấu tranh được thành lập với các tiểu ban tuyên truyền vận động, điều tra, bảo vệ và tài chính.
Một phần Nhà máy Dệt Nam Định trước năm 1965.
Ngày mở đầu cuộc đấu tranh còn chưa được ấn định thì đêm 2-2-1937 xảy ra việc tên đốc công Phòlôrêvơ đánh ngã một công nhân ở Nhà sợi B. Toàn thể công nhân liền hãm máy phản đối. Nhân sự kiện này, uỷ ban đấu tranh đã kịp thời lãnh đạo công nhân các Nhà sợi A, dệt A, dệt B đình công. Ngày 3-2-1937, toàn thể công nhân Xưởng nhuộm, Xưởng chăn và công nhân Nhà máy tơ đều nghỉ việc hưởng ứng. Cuộc đình công đã lôi cuốn 8.000 người tham gia.
Uỷ ban đấu tranh gửi yêu sách qua bưu điện đòi chủ nhà máy phải thi hành Luật Lao động, bỏ hẳn đánh đập, mở thêm cửa sổ các buồng máy, cho công nhân uống nước hợp vệ sinh, tăng lương, giảm giờ làm, không được đuổi thợ đình công. Ngày 4-2-1937, uỷ ban đấu tranh tổ chức mít tinh lớn ở Văn Miếu có diễn thuyết, rải truyền đơn, vạch rõ bản chất ngoan cố của bọn chủ, kêu gọi công nhân kiên trì đấu tranh. Sau cuộc mít tinh, công nhân xếp thành năm hàng biểu tình qua cổng nhà máy và những nơi tập trung đông người như chợ Rồng, bến xe. Uỷ ban đấu tranh còn cử đại biểu đi gặp Viện trưởng Viện Dân biểu Bắc Kỳ, gặp Gôđa - Thanh tra lao động của Chính phủ nhân dân Pháp đòi can thiệp. Báo chí công khai của Đảng đã kịp thời biểu dương ý chí đấu tranh của công nhân Nhà máy sợi, kêu gọi quần chúng khắp nơi ủng hộ.
Trước sức mạnh đấu tranh hợp pháp của 8.000 công nhân cùng với sức ép của dư luận tiến bộ, bọn chủ nhà máy không thể thúc nhà cầm quyền dùng vũ lực đối phó. Chúng dùng tên chủ bút tờ Ngọ báo ở Hà Nội về xuyên tạc Luật lao động, đưa tin doạ đóng cửa nhà máy sáu tháng, sa thải hết phụ nữ, trẻ em. Thậm chí chúng còn cho tay sai về những làng có đông công nhân để dụ dỗ mua chuộc. Nhưng tất cả những thủ đoạn của chủ nhà máy đều bị vạch trần. Đến hạ tuần tháng 2-1937, chúng phải chấp nhận những yêu sách chủ yếu về giảm giờ làm từ 12 tiếng xuống 8 tiếng mỗi ngày, làm việc ba ca; tăng lương cho công nhân 25%.
Khi công nhân vừa trở lại làm việc thì bọn chủ tìm cách trả thù; kiếm cớ đuổi một số người mà chúng cho là cầm đầu cuộc bãi công, đồng thời âm mưu tuyển thợ mới, sa thải thợ đã tích cực tham gia bãi công. Những tên cai ký gian ác lại tiếp tục đánh đập thợ. Nhân việc tên cai Nghé hành hung dã man một thợ nhỏ trong đêm 2-3-1937, toàn thể công nhân xưỏng dệt lại đóng máy đấu tranh. Đồng thời hơn 1.000 công nhân xưỏng dệt phần đông là phụ nữ và trẻ em đã nghỉ việc để phản đối sự lật lọng của chủ và vạch tội ác của cai Nghé. Trước khí thế phẫn nộ của công nhân và sự báo hiệu cuộc đấu tranh tới sẽ mạnh mẽ và quyết liệt hơn trước, chủ nhà máy phải vội vàng nhượng bộ.
Cuộc bãi công đã kết thúc, đạt được thắng lợi to lớn. Đây là cuộc đấu tranh kéo dài nhất, thu hút đông đảo công nhân tham gia và cũng thể hiện sự vận dụng linh hoạt có hiệu quả chủ trương của Đảng trong thời kỳ Mặt trận dân chủ. Cuộc đấu tranh đã chĩa thẳng mũi nhọn vào bọn phản động thuộc địa đang tăng cường vơ vét, bóc lột nhân dân với hình thức đấu tranh công khai, nêu ra những khẩu hiệu đấu tranh trên cơ sở pháp lý, buộc kẻ địch phải thực hiện những yêu sách chính đáng của công nhân, chặn đứng sự tàn ác, dã man của chủ nhà máy và bọn tay sai.
Từ đây, phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống phí thu lạm bổ và phong trào hưởng ứng Đông Dương Đại hội được Đảng bộ lãnh đạo diễn ra sôi nổi từ khắp thành thị tới nông thôn với sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân (công nhân, nông dân, người làm nghề thủ công, tiểu tư sản, trí thức). Những cuộc đấu tranh liên tục của nhân dân Nam Định đã giành được một số quyền lợi thiết yếu. Công sứ Nam Định phải họp hội đồng hoá giá quy định giá gạo. Các chủ nhà máy, chủ xưởng phải giải quyết một phần tình trạng sinh hoạt đắt đỏ cho công nhân từ tháng 10-1937.
Thanh niên học sinh cũng tổ chức đấu tranh đòi dạy tiếng Việt ở các trường, đòi giải quyết nạn thất nghiệp cho lao động trí óc.
Nông dân Nam Định vốn căm thù sâu sắc bọn đế quốc, tay sai đè nén áp bức mình, nay được Đảng tổ chức, lãnh đạo đã vùng lên đấu tranh mạnh mẽ. Ở Địch Lễ (Nam Trực) các đồng chí Phan Đình Dinh, Ngô Văn Ngoạn lãnh đạo quần chúng đấu tranh, buộc cường hào, hương lý phải trả lại ruộng công chúng đã cướp đoạt để các suất đinh trong làng đòi được chia thêm ruộng, ở Đông An (Xuân Trường), quần chúng đòi cường hào phải trả cho dân 60 ha đất bãi sông Hồng. Các làng ở Hạc Châu, Xuân Bảng, quần chúng đòi lý dịch phải công khai sổ thuế thu mà chúng đã ẩn lậu, đòi nhà thầu đắp đê phải bồi thưòng hoa màu bị phá ở Đông An, Hạc Miêu. Quần chúng ở Quỹ Thượng, Quỹ Đê (Trực Ninh) đã vạch mặt tên chánh tổng thông đồng cùng lý dịch khai man 30 suất đinh, chiếm đoạt 18 mẫu công điền, buộc Tổng đốc Trần Văn Thông phải can thiệp. Kết quả, mỗi suất đinh được nâng từ 6,8 sào ruộng lên 9 sào; mỗi suất thuế giảm từ 2 đồng 5 hào xuống 2 đồng, ở Nghĩa Hưng, các uỷ ban hành động do các đảng viên phụ trách đã tổ chức nhân dân đấu tranh chống bọn cường hào cướp công điền, ăn bớt muối của diêm dân đều có kết quả thiết thực.
Từ những cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân lao động đòi quyền lợi kinh tế, Đảng bộ Nam Định đã phát triển mạnh các cơ sở Đảng, củng cố cơ quan lãnh đạo của tỉnh; tổ chức tuyên truyền giáo dục ý thức đấu tranh và đưa các chủ trương, đường lối của Đảng vào trong các tổ chức quần chúng. Với hàng loạt các cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra cùng những khẩu hiệu và hình thức phong phú, nhất là từ sau khi Ban Tỉnh uỷ Nam Định được tái lập và thống nhất được sự chỉ đạo trong toàn tỉnh, phong trào quần chúng đã mang đậm nét của các cuộc vận động chính trị phối hợp với phong trào toàn quốc nhiều hơn.
Để đối phó với tình hình của cả nước, thực dân Pháp đã bày ra trò bầu cử Nghị viện dân biểu Bắc Kỳ hòng lừa mị nhân dân. Chúng tuyên truyền rùm beng cho cái gọi là Viện Dân biểu sẽ đại diện cho tiếng nói của dân, sẽ đưa ra những kiến nghị với Nhà nước và chăm lo cho những vấn đề có lợi cho các tầng lớp nhân dân. Ban Tỉnh uỷ Nam Định nắm rõ thủ đoạn lừa bịp của địch, coi đây là dịp để Đảng tuyên truyền vạch rõ những âm mưu, thủ đoạn lừa gạt xảo trá của địch; vạch rõ để nhân dân không mơ hồ, ảo tưởng về một Nghị viện có thể mang lại quyền lợi cho dân, cho nước. Đồng thời với việc vạch trần tổ chức Nghị gật này, Tỉnh ủy Nam Định chủ trương liên hiệp với phân chi Đảng Xã hội Pháp ở Nam Định và một số người tiến bộ thuộc tầng lớp trên ủng hộ những ứng cử viên tiến bộ với danh nghĩa là người của Mặt trận nhân dân. Mặt khác, Đảng bộ cũng vạch mặt những tên phản động, tay sai đắc lực của đế quốc. Cuộc vận động lan rộng khắp thành thị tới nông thôn, được nhân dân sôi nổi hưởng ứng. Do thủ đoạn đe doạ khủng bố, gây sức ép của bọn thống trị, những ứng cử viên do Mặt trận nhân dân giới thiệu không trúng cử nhưng qua cuộc vận động này ta đã tranh thủ được các tầng lớp xã hội rộng rãi và đường lốỉ, chủ trương của Đảng qua thực tế đấu tranh đã thấm sâu vào ý thức của quần chúng nhân dân.
Phong trào Đông Dương Đại hội trong những năm này thực sự là cuộc vận động chính trị sâu rộng ở Nam Định. Ngoài việc tích cực đưa yêu sách đòi thi hành Luật lao động 1884, quần chúng nhân dân lao động còn ủng hộ các phong trào đấu tranh của công nhân xe lửa Trường Thi, Sài Gòn, ủng hộ nhân dân Trung Quốc chống Nhật, đòi huỷ bỏ lệnh đình bản báo Tin tức - một tờ báo công khai của Đảng. Sôi nổi nhất là cuộc mít tinh vào tháng 3-1938, gồm 4.000 người thuộc nhiều tầng lớp xã hội tham gia. Cuộc mít tinh lấy danh nghĩa công khai là đưa tiễn Công sứ Alơmăng nhưng thực chất là biểu dương lực lượng, đòi tư do lập nghiệp đoàn, tự do hội họp, đòi tăng lương cho công nhân, giải quyết nạn thất nghiệp, chống thất học, đòi việc làm cho người lao động trí óc. Cuộc mít tinh được tổ chức ở ngay tại sân ga Nam Định. Đồng chí Phan Đình Khải thay mặt nhân dân Nam Định nói lời tiễn biệt và nêu những yêu cầu bức thiết của nhân dân với nhà cầm quyền địa phương. Đây là cuộc mít tinh công khai đông nhất, là đỉnh cao của phong trào, có ảnh hưởng rộng lớn trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, được Hội nghị Xứ uỷ Bắc Kỳ (8-1938) biểu dương. Bọn mật thám vô cùng tức tối nhưng không làm gì được; sau cuộc biểu tình chúng chỉ đuổi việc sáu công nhân Sở lục lộ vì đã nghỉ việc để đi mít tinh.
Để đổi phó với phong trào đòi tự do dân chủ của quần chúng, đồng thời vô hiệu hoá các tổ chức ái hữu, Công sứ Lốtde được đổi về Nam Định thay Alđmăng, sau khi nghiên cứu tình hình đã đi đến nhận định: giải quyết các ái hữu là phương sách rất dở vì sẽ đưa lại tình trạng hỗn loạn như thời kỳ 1929- 1930 mà phải lập ra một câu lạc bộ để công nhân đến đó tự do bàn cãi về quyền lợi, không phải nhờ ái hữu. Để thực hiện ý đồ này, y cho lập cái gọi là Câu lạc bộ - Thư viện thợ thuyền và mời Thống sứ Saten về dự lễ khánh thành vào ngày 29-7-1938. Nhân cơ hội này, Tỉnh uỷ Nam Định đã kịp thời lãnh đạo công nhân tổ chức một cuộc biểu tình hợp pháp tại cổng Câu lạc bộ với danh nghĩa công khai đi đón Thông sứ Saten nhưng chính là biểu thị ý chí đấu tranh đòi tự do dân chủ, đòi cho lập nghiệp đoàn và gián tiếp phản đối Lốtde.
Vào hồi 4 giờ chiều ngày 29-7-1938, một lực lượng gồm 299 công nhân đã đứng kín trước cửa Câu lạc bộ. Tên Chánh mật thám Phờlôtô đưa mật thám và cảnh sát đến giải tán, nhưng quần chúng nhất quyết không rời vị trí. Cảnh sát xông vào bắt 10 người, nhân dân kéo đến càng đông và tiến về phía Toà sứ. Sợ bị náo động và để che mắt Thông sứ Saten, chúng tiếp tục xông vào ngăn cản và bắt thêm nhiều người nữa hòng giải tán cuộc biểu tình. Toàn thể 49 người bị bắt giam tiếp tục đấu tranh, hò la tuyệt thực. Bên ngoài, báo chí công khai đưa tin phản đối thủ đoạn khủng bố trắng trợn của nhà cầm quyền, gây xúc động mạnh tới công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động nhiều nơi trong nước. Công nhân Nhà máy xi măng Hải Phòng; các giới lao động thành phố Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn; nông dân các tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh, Phúc Yên cùng thanh niên, học sinh, trí thức Nam Định gửi thư và tiền về ủng hộ. Nhiều nơi còn cử cả đại biểu về động viên các ái hữu công nhân Nam Định. Bọn cầm quyền thực dân bị đẩy vào thế lúng túng khó xử vì không có cơ sở pháp lý để khép tội những người bị bắt, buộc phải trả tự do cho tất cả số người trên.
Cũng năm 1938, dưới sự chỉ đạo của Liên Tỉnh uỷ C, Đảng bộ Nam Định còn vận động được đông đảo quần chúng về dự cuộc mít tinh lớn ở khu Đấu Xảo (Hà Nội) để kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động nhằm ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp, phản đối bọn phản động thuộc địa, đòi tự do dân chủ và yêu cầu phòng thủ Đông Dương.
Từ năm 1936 đến đầu năm 1938, hoà nhịp cùng phong trào cả nước, phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ ở Nam Định diễn ra rầm rộ và giành được những thắng lợi, nhưng từ khi Công sứ Lốtde được đổi về Nam Định, nhất là từ khi Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp đổ, Chính phủ phản động do Đalađiê làm thủ tướng lên cầm quyền, thái độ của bọn thống trị đã thay đổi, ngày càng ra mặt khủng bố phong trào cách mạng. Bọn phản động thuộc địa trước đây phải lùi bước trước phong trào, buộc phải nới lỏng một số quyền tự do dân chủ, nhượng bộ một số quyền lợi tối thiểu về đời sống của công nhân, nông dân và các tầng lớp xã hội khác, nay lại trắng trợn đàn áp. Hội nghị đại biểu Xứ uỷ Bắc Kỳ đã nêu rõ: "Đặc biệt ở Nam Định, gần đây sự khủng bố dữ dội hơn ở các nơi khác. Các hội quán tạm thời của ái hữu đều bị giải tán. Nhiều phố lao động bị canh gác, ai ra vào thường bị xét hỏi. Thợ thuyền tham gia đình công, biểu tình hay có chân trong ái hữu đều bị đuổi và rời nhà đi".
Từ chỗ cấm hoạt động và xoá bỏ những trụ sở công khai của các ái hữu, địch truy lùng các cơ sở in và phát hành báo chí tiến bộ. Các đồng chí Phan Đình Khải, Đặng Việt Châu bị mật thám bắt tại Đại lý sách báo Nam Định. Các đồng chí Ngô Văn Quỳnh (Ngô Ngọc Du), Phan Đình Dinh (Đinh Đức Thiện), Phan Đình Đống (Mai Chí Thọ), Ngô Văn Ngoạn, Phan Đình Đoán cùng một số quần chúng cách mạng ở Địch Lễ (Nam Trực) cũng bị bắt. Ngày 28-7-1939, các đồng chí Nguyễn Đức Thuận, Bùi Xuân Huân cũng bị bắt ở Vụ Bản. Trong đợt này, địch đã lục xét nhà cửa và bắt 22 đảng viên, quần chúng cách mạng Nam Định. Trước việc bắt người trái pháp luật đó, vào hồi 10 giờ sáng ngày 2-8-1939 sau khi được trả tự do, đồng chí Phan Đình Khải đã gửi Toàn quyền Đông Dương bức điện phản đối với nội dung: "Chúng tôi cực lực phản đối việc khám nhà và bắt người hàng loạt ngày 31-7- 1939. Chúng tôi cho rằng đó là việc làm trái với tự do dân chủ". Ngày 28-8-1939, bất chấp sự đe doạ của kẻ thù, nhiều truyền đơn được dán lên tường Nhà máy sợi phản đối sự khủng bố của bọn thống trị và tuyên truyền cách mạng.
Lúc này, tình hình trong nưóc và thế giới biến chuyển hết sức căng thẳng. Bọn phản động thuộc địa ngày càng tìm cách bóp nghẹt phong trào. Trước đó, Trung ương Đảng đã nhận rõ tình hình bất lợi của phong trào. Tháng 5-1939, Hội nghị Xứ uỷ Bắc Kỳ đã đề ra một số chủ trương về công tác xây dựng Đảng nhằm khẩn cấp xây dựng cơ sở Đảng ở nơi có phong trào quần chúng, đặc biệt là nơi tập trung vô sản; mở rộng và củng cố những cơ sở đã có; mở những lớp huấn luyện chính trị trong Đảng và xuất bản những sách báo công khai hoặc bí mật tuỳ theo hoàn cảnh.
Thực hịên Nghị quyết trên và để thích ứng với hoàn cảnh đã thay đổi, Đảng bộ Nam Định chuyển dần sang hoạt động bất hợp pháp là chủ yếu. Các ái hữu thợ thuyền phải ngừng hoạt động. Các tổ chức quần chúng cách mạng chuyển sang hoạt động bí mật dưới hình thức hội tương tế.
Tháng 9-1939, Đại chiến thế giới thứ hai bùng nổ. Trung ương Đảng ta đề ra chủ trương rút toàn bộ cơ quan hoạt động công khai của Đảng vào bí mật. Phong trào cách mạng Nam Định chấm dứt thời kỳ Mặt trận dân chủ, chuyển hướng theo sự chỉ đạo của Trung ương Đảng về chiến lược và sách lược cách mạng của thời kỳ mới - thời kỳ chiến tranh và cách mạng.
*
* *
Quá trình khôi phục cơ sở Đảng cùng với cuộc vận động của thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) do Đảng bộ Nam Định lãnh đạo thực sự là một phong trào cách mạng sâu rộng, mạnh mẽ, không những trong giai cấp công nhân, nông dân mà còn lôi cuốn mọi tầng lớp xã hội vào những cuộc đấu tranh chính trị hết sức rầm rộ. Những cuộc đấu tranh đó diễn ra công khai, hợp pháp với những hình thức linh hoạt, phong phú, phù hợp với điều kiện xã hội, nhằm vào mục đích tự do dân chủ dân sinh. Tất cả các cuộc đấu tranh từ nhỏ đến lớn đều quán triệt đường lối của Đảng, chĩa mũi nhọn vào bọn phản động thuộc địa Pháp, bọn tư bản độc tài, bọn tay sai gian ác, hướng tới Mặt trận dân chủ rộng rãi.
Trong quá trình lãnh đạo phong trào quần chúng, trình độ chính trị và khả năng công tác của cán bộ, đảng viên không ngừng được rèn luyện, nâng cao. Điều quan trọng là Đảng bộ đã biết lợi dụng tình hình chính trị có lợi lúc bấy giờ để hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp nhằm phổ biến tới quảng đại quần chúng những luận điểm cơ bản của Đảng, của chủ nghĩa Mác - Lênin, về con đường diệt vong tất yếu của chủ nghĩa đế quốc, sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản. Nhờ đó giúp cho các đảng viên mới ra tù hoặc bị mất liên lạc với Đảng nắm bắt được đường lối, chủ trương mới của Đảng, trên cơ sở đó mà bắt mối, gây dựng lại cơ sở, lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Qua phong trào đấu tranh đòi tự do dân sinh, dân chủ, Đảng bộ đã động viên, giáo dục ý thức cách mạng, tinh thần hữu ái giai cấp, tập hợp đông đảo các giai cấp, các tầng lớp xã hội tham gia vào cuộc vận động chính trị rộng lớn, từ đó mà xây dựng đội ngũ chính trị hùng hậu, tập dượt đấu tranh, chuẩn bị thực lực cho cuộc Cách mạng Tháng Tám.
Tuy vậy, trong quá trình lãnh đạp, chỉ đạo phong trào, Đảng bộ Nam Định tuy có đề ra Nghị quyết về xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức quần chúng bí mật và giáo dục nhiệm vụ cách mạng lâu dài cho đảng viên, quần chúng cách mạng, nhưng thực tế hoạt động thiên về công khai, hợp pháp là chủ yếu. Công tác xây dựng Đảng chưa được chú trọng thường xuyên, đúng mức, không có người phụ trách chuyên về công tác xây dựng Đảng và xây dựng các tổ chức quần chúng bí mật. Cũng vì vậy mà trong suốt thời kỳ Mặt trận dân chủ sôi động ấy, một số địa phương, phong trào vẫn còn là địa bàn trắng. Cũng do những thiếu sót trên mà khi tình hình thay đổi, các tổ chức hợp pháp bị giải tán, những quần chúng cốt cán trong các tổ chức đó không còn cơ sở để duy trì sinh hoạt và tiếp tục hoạt động. Nhiều đồng chí hoạt động hợp pháp đã bị rơi vào tay giặc.
Mặc dù những thiếu sót trên có ảnh hưởng tới lực lượng cách mạng ngay thời gian sau đó (1939-1940) nhưng qua cao trào đấu tranh 1936-1939, quần chúng cách mạng lại một lần nữa được tôi luyện, thử thách, Đảng bộ đúc rút được những kinh nghiệm quý báu về phương pháp tổ chức tập hợp vận động quần chúng, làm tiền đề cho thắng lợi trong công cuộc giành chính quyền Cách mạng Tháng Tám 1945 sau này.
III. VỮNG VÀNG TRONG KHỦNG BỐ, KHÔI PHỤC LẠI PHONG TRÀO (1939-1945)
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, châm ngòi nổ cho cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.
Ngày 3-9-1939, Pháp tuyên chiến với Đức. Không chỉ có nước Pháp mà xứ Đông Dương thuộc Pháp cũng bị cuốn vào cơn lốc của chiến tranh. Bước vào vòng chiến, chính quyền tư bản Pháp chủ trương phát xít hoá bộ máy cai trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng ở chính quốc và các nước thuộc địa. Thành phố Nam Định là nơi đóng sở chỉ huy của Trung đoàn pháo thủ Bắc Kỳ thứ tư (44RTT) với lực lượng là 500 tên cùng một đại đội lính khố xanh. Hai đồn Lạc Quần và Tam Toà cũng có gần hai trung đội khố xanh án ngữ vùng nông thôn và vùng biển. Ngoài số mật thám lành nghề, sở mật thám Nam Định còn có một mạng lưới chỉ điểm tới 165 tên, rải ra ở khắp nơi, nhất là trong các nhà máy ở thành phố. Tổ chức ái hữu công nhân Thiên Chúa giáo ra sức ngăn cấm con chiên bàn luận chính trị và tham gia vào các cuộc đấu tranh.
Ở Việt Nam, thực dân Pháp thi hành chính sách kinh tế thời chiến, tận lực vơ vét sức người, sức của để cung phụng cho chiến tranh. Với lệnh tổng động viên được ban bố, bọn thống trị và tay sai ở Nam Định đã lùng sục, bắt hàng loạt thanh niên trai tráng vào lính, làm bia đỡ đạn trên khắp các chiến trường của Pháp. Các phương tiện vận tải bị trưng dụng, sung công. Các cuộc lạc quyên, mua công trái với cái vỏ bọc xảo trá "giúp đỡ các chiến sĩ Pháp - Việt đang chiến đấu" được mở ra liên tiếp để vơ vét của cải của dân. Ngoài ra chúng đồng loạt tăng cường các loại thuế cũ, đặt thêm nhiều loại thuế mới hết sức vô lý. Trong khi đó, do ảnh hưởng của chiến tranh hàng loạt các nhà máy của tư bản Pháp và của người sản xuất đình đốn, nhiều xí nghiệp phải đóng cửa, công nhân bị sa thải, thất nghiệp.
Nông dân đói khổ cùng kiệt vì sưu thuế nặng nề, sản lượng lương thực giảm sút. Các tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ cũng khó đường xoay xở, sinh sống. Trí thức, viên chức thiếu việc làm, giá sinh hoạt ngày càng tăng vọt. Sự bóc lột của thực dân Pháp để phục vụ cho cỗ xe chiến tranh đã làm cho người dân Nam Định oằn lưng khốn khổ.
Song điều mà thực dân Pháp đặc biệt quan tâm là bằng mọi cách triệt phá phong trào cách mạng, tấn công vào Đảng Cộng sản vì chỉ có tiêu diệt được lực lượng cách mạng thì chúng mới có thể yên tâm theo đuổi chiến tranh. Tại Nam Định, đế quốc Pháp và tay sai đã tiến hành 122 vụ khám xét, bắt 46 người, hầu hết là những đảng viên, quần chúng cách mạng hoạt động công khai trong thời kỳ Mặt trận dân chủ. Mọi quyền dân chủ đơn sơ nhất mà người dân giành được đều bị huỷ bỏ, cấm đoán.
Đối với Đảng ta, sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai đã được dự đoán từ trước. Ngay từ năm 1930, trong lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ "cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đang được ráo riết chuẩn bị". Trong thời kỳ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, Đảng đã đề ra một số chủ trương và hoạt động đề phòng khi chiến tranh bùng nổ. Chính có sự chuẩn bị trước nên chỉ một tháng sau khi chiến tranh thế giới xảy ra, ngày 29-9- 1939, Trung ương Đảng đã gửi Thông báo yêu cầu các cấp bộ Đảng và toàn thể đảng viên phải rút vào hoạt động bí mật một cách nhanh chóng và triệt để, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, biến nông thôn thành căn cứ địa rộng lớn của cách mạng, duy trì phong trào ở thành thị, kết hợp chặt chẽ phong trào thành thị và phong trào nông thôn. Các tổ chức quần chúng cách mạng nhanh chóng chấm dứt hoạt động công khai.
Tỉnh uỷ Nam Định tuy đã nhận rõ sự trở mặt của kẻ thù và có phương án đối phó với tình thế mới, chú ý xây dựng lực lượng cách mạng bí mật, thuyên chuyển cán bộ lãnh đạo, huỷ bỏ một số tài liệu quan trọng nhưng do những điều kiện riêng ở thành phố, bộ phận công khai còn lúng túng, chưa kịp thời rút vào hoạt động bí mật nên đã bị tổn thất nặng nề. Ngay trong đợt khủng bố đầu tiên đã có 46 cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng bị bắt và truy tố trước toà án về tội "tàng trữ các sách báo, tuyên truyền cộng sản". Các tổ chức ái hữu bị giải tán, Đại lý báo Tin tức bị đóng cửa. Riêng lực lượng hoạt động bí mật vẫn được bảo toàn, cơ quan lãnh đạo, các tổ chức cơ sở Đảng vẫn được duy trì. Để duy trì hoạt động, sau khi đồng chí Trần Hoạt (Bí thư Tỉnh uỷ) được trả tự do, cấp trên đã chuyển đồng chí đi hoạt động ở địa bàn khác.
Nhằm hoạch định phương hướng lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước trong tình hình mới, đầu tháng 11-1939, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6, xác định bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng; nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương trong thời kỳ chiến tranh; chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, tạm thời rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, trong lúc này chỉ chủ trương tịch ký ruộng đất của những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, thay khẩu hiệu chính quyền công nông bằng khẩu hiệu Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc Đông Dương và chĩa mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù dân tộc là chủ nghĩa đế quốc phát xít.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ 6, Tỉnh uỷ Nam Định đã có những biện pháp gấp rút chỉ đạo chuyển hướng hoạt động, phát triển thực lực cách mạng. Tháng 11-1939, trên cơ sở các tổ chức bí mật vẫn còn được bảo toàn, Ban Tỉnh uỷ đã kiện toàn gồm các đồng chí Ngô Văn Quỳnh, Phạm Văn Ty do đồng chí Nguyễn Văn Dương làm Bí thư Tỉnh uỷ kiêm phụ trách cả Liên Tỉnh uỷ C.
Dựa vào chủ trương của Trung ương, Tỉnh uỷ đã họp bàn quyết định ba nhiệm vụ trước mắt là:
- Củng cố các cơ sở Đảng, tiếp tục duy trì các hội quần chúng rộng rãi chưa bị lộ, chọn một số phần tử trung kiên lập Hội Phản đế, tổ chức thêm các hội quần chúng khác.
- Xúc tiến việc tuyên truyền, giáo dục về tình hình nhiệm vụ mới cho toàn Đảng bộ, nâng cao tinh thần quyết tâm chống đế quốc, giải phóng dân tộc.
- Lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi những quyền lợi thiết thực.
Đội du kích Hồng Phong, huyện Nghĩa Hưng trong kháng chiến chống Pháp (1945 -1954)
Nhờ kiện toàn được Ban Tỉnh uỷ và có sự chỉ đạo kịp thời, phong trào cách mạng Nam Định qua đợt khủng bố ác liệt đã bắt đầu có bước chuyển biến. Công tác xây dựng Đảng được chú ý, các chi bộ cơ sở được củng cố. Những cán bộ trước đây hoạt động công khai hoặc bán công khai chưa bị lộ được rút vào hoạt động bí mật. Trên 20 đảng viên hoạt động được chắp mối liên lạc và sinh hoạt trong bảy chi bộ cơ sở: thợ máy sợi, bồi bếp (thành phố Nam Định), Địch Lễ (Nam Trực), Hào Kiệt (Vụ Bản), Lạc Nghiệp, Trà Lũ, Thọ Vực (Xuân Trường), Hà Cát (Giao Thuỷ). Số đảng viên này hầu hết là công nhân, nông dân lao động được giác ngộ trong thời kỳ Mặt trận dân chủ nên hăng hái hoạt động, tuy chưa được rèn luyện và chưa có nhiều kinh nghiệm hoạt động bí mật. Một số đảng viên hoạt động công khai thời kỳ Mặt trận dân chủ, Đảng bộ chủ trương tạm thời chưa bắt liên lạc để tránh sự theo dõi của kẻ thù. Những đảng viên bị lộ đều được điều chuyển đi nơi khác. Các tổ chức quần chúng biến tướng như hội âm nhạc, hội tương tế, hội hiếu hỷ ở Mỹ Trọng (Mỹ Lộc), Đông An, Cát Xuyên (Xuân Trường) cũng chuyển phương thức hoạt động. Những binh lính yêu nước được nhân mối của ta giác ngộ cách mạng và đưa vào tổ chức quần chúng trong trại lính khố đỏ được xây dựng dưới hình thức nhóm chơi họ, nhóm đọc báo. Tại thành phố Nam Định còn lập ra các hội tương tế thợ nề, thợ sơn, thợ máy sợi.
Trong điều kiện hoạt động mới vô cùng khó khăn, để tạo chỗ dựa vững chắc cho phong trào quần chúng, đầu năm 1940, Đảng bộ Nam Định đã thành lập Đoàn Thanh niên Phản đế gồm 15 người, trên cơ sở lựa chọn các đoàn viên Thanh niên Dân chủ là học sinh ở thành phố, các hội viên tích cực trong các tổ chức quần chúng ở Nam Trực chuyển sang. Tổ chức Đoàn Thanh niên Phản đế đề ra phương thức hoạt động chặt chẽ, phù hợp với tình hình, đặc biệt là nguyên tắc hoạt động bí mật, quan hệ công tác.
Trên cơ sở củng cố tổ chức, xây dựng phong trào, Đảng bộ đã tạo được điều kiện thuận lợi tổ chức các hoạt động phù hợp, tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng cách mạng, treo cờ Đảng, phát tán truyền đơn ở những nơi trọng yếu như thành phố Nam Định, đồn binh Lạc Quần, đồn đoan Ngô Đồng, phủ lỵ Xuân Trường kêu gọi quần chúng đấu tranh chống tăng giờ làm, chống khủng bố, bắt phu, bắt lính và sung công tài sản. Tại Địch Lễ (Nam Trực), Chi bộ Đảng đã lãnh đạo quần chúng nông dân đòi chia lại ruộng công ở Đông An, đấu tranh chống hà lạm của công, lấy chữ ký đòi đổi tên Thừa phái phủ Xuân Trường khét tiếng độc ác và tham nhũng đi nơi khác, đòi bọn cưòng hào phải trả lại 66 mẫu ruộng ở bãi tân bồi. Chính quyền địa phương đã phải nhượng bộ nhân dân trước những yêu sách chính đáng đó.
Trong hoàn cảnh Đảng phải rút vào hoạt động bí mật, một số đảng viên và quần chúng cách mạng dao động, nhất là sau đợt khủng bố ngày 29-9-1939, Đảng bộ đã có nhiều biện pháp giáo dục, nói chuyện thời sự, tiếp tục in và phát hành rộng rãi báo Tiến lên, tổ chức các lớp huấn luyện ngắn ngày về tình hình, nhiệm vụ và kinh nghiệm hoạt động bí mật tại Lạc Nghiệp (Xuân Trường) và Hào Kiệt (Vụ Bản). Một số tài liệu giải thích về tình hình thời sự thế giới, về âm mưu gây chiến của đế quốc, Hiệp ước Xô - Đức, chiến tranh Xô - Phần, liên minh Quốc - Cộng ở Trung Quốc... cũng được in và phổ biến. Ngoài ra, trong các buổi sinh hoạt của quần chúng, các đồng chí đã khéo léo phổ biến đường lối của Đảng, lấy tình hình hiện tại để phát động ý chí căm thù giặc của quần chúng.
Sự chuyển hướng về tổ chức và sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh uỷ đã vực được phong trào sau đợt khủng bố tràn lan của kẻ thù. Hoạt động của các tổ chức quần chúng được duy trì, mở rộng. Các cấp uỷ cơ sở còn kịp thời phát hiện, uốn nắn những khuynh hướng tư tưởng sai lệch, bồi dưỡng ý chí cách mạng cho đảng viên và quần chúng.
Phong trào toàn tỉnh đã rút vào bí mật và hoạt động có hiệu quả đang tạo đà cho phong trào tiến lên. Nhưng do còn thiếu kinh nghiệm về công tác bí mật nên vẫn để cơ quan Tỉnh uỷ đóng tại nhà số 3 ngõ Nam Xuyên (thành phố Nam Định), hoạt động lại lộ liễu, chủ quan, với nhiều cuộc hội họp đông đúc nên mật thám đã phát hiện ra cơ sở này. Chiều 21-4-1940, đúng lúc một số báo chí cách mạng vừa được chuyển tới cơ quan Tỉnh uỷ, mật thám ập vào bắt các cán bộ chủ chốt, trong đó có cả Bí thư Tỉnh uỷ và đồng chí phụ trách Đoàn Thanh niên Phản đế cùng toàn bộ tài liệu chưa kịp thủ tiêu. Địch khai thác được tình hình, ngay đêm ấy, chúng mai phục bắt tiếp đồng chí Tỉnh uỷ viên cuối cùng và sáng hôm sau kéo về vây bắt cơ quan in báo Tiến lên ở Thọ Vực, thu máy chữ, phương tiện in thạch và nhiều báo chí, tài liệu. Đồng chí Ngô Duy Phớn (Bí thư Liên Tỉnh uỷ C), Vũ Đức Mậu cùng một số đảng viên bị bắt tại chỗ. Địch đã dùng cực hình tra tấn dã man kết hợp với mua chuộc, ly gián để khai thác tổ chức cách mạng.
Suốt nửa cuối năm 1940, các cuộc bắt bớ, vây ráp diễn ra liên miên ở Nam Định và cả các tỉnh trong Liên Tỉnh uỷ C. Đảng bộ Nam Định bị tổn thất nặng nề nhất, trên 80 người bị bắt (49 người bị đưa ra Toà Nam án xét xử với mức án tù từ 5 năm đến khổ sai chung thân). Riêng tại Lạc Nghiệp, địch cho binh lính vây ráp, bắt đi 17 đảng viên và quần chúng trung kiên. Sau khi Pháp đầu hàng phát xít Đức chúng lại tiếp tục bắt thêm hơn mười đảng viên, phần lớn là những đồng chí chưa bắt liên lạc được với tổ chức, đưa đi an trí.
Những vụ khủng bố lớn kéo dài trên đã gây tổn thất nặng nề cho phong trào cách mạng Nam Định. Toàn ban lãnh đạo Tỉnh uỷ và hầu hết cán bộ, đảng viên bị bắt. Cả tỉnh chỉ còn Chi bộ Hà Cát và một số đảng viên quần chúng cách mạng ở thành phố Nam Định và Lạc Nghiệp (Xuân Trường). Các tổ chức quần chúng không có cán bộ lãnh đạo cũng tan vỡ dần. Phong trào cách mạng Nam Định tuy lắng xuống nhưng ngọn lửa cách mạng vẫn âm ỉ cháy trong lòng nhân dân, không một kẻ thù nào có thể dập tắt được.
Tháng 9-1940, Nhật nhảy vào chiếm Đông Dương. Những tiếng súng vũ trang khởi nghĩa ở Bắc Sơn, Nam Kỳ vọng về đã thúc giục tinh thần yêu nước và cách mạng của quần chúng, báo hiệu một cao trào mới đang dâng lên trong phạm vi toàn quốc.
Ở thành phố Nam Định, truyền đơn và áp phích chống chiến tranh, phản đốì tư bản đuổi thợ lại xuất hiện. Một số quần chúng cách mạng tự động tập hợp nhau dưới hình thức các nhóm học nghề, học văn hoá, bí mật nghiên cứu sách báo cách mạng, giữ liên lạc với nhau, tạo điều kiện tìm cách bắt mối với Đảng. Cờ Đảng lại tung bay trên cây gạo Trình Xuyên (Vụ Bản). Chi bộ Hà Cát (Giao Thuỷ) chủ động liên hệ với Đảng bộ Thái Bình để hoạt động, mở rộng cơ sở sang cả vùng Định Hải giáp Thái Bình; khôn khéo lãnh đạo nông dân đấu tranh đòi 50 mẫu ruộng bị địa chủ bao chiếm ở Hành Thiện. Chi bộ còn xây dựng đội tự vệ bán vũ trang, luyện đao kiếm, tập quân sự dưới hình thức học võ, chuẩn bị từng bước đưa phong trào cách mạng tiến lên. Vùng Nhuộng, Tiêu Bảng, Văn Xá (bắc Ý Yên) do được sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ Hà Nam đã lập được chi bộ Đảng. Khu vực phía nam Ý Yên, các đảng viên còn lại đã liên hệ bắt mối được với đồng chí Trần Trọng Hợp - cán bộ của tỉnh dạy học tại La Ngạn. Được sự chỉ dẫn, các đảng viên đã mau chóng phục hồi các cơ sở cách mạng ở Thanh Cầu, Thức Vụ, Đống Cao, Vụ Sài, Lương Xá và củng cố thêm được một chi bộ nữa. Các chi bộ ở Ý Yên, Nghĩa Hưng đã tiến hành tập hợp lực lượng quần chúng, xây dựng các đoàn thể như Thanh niên Phản đế, Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc tại các địa phương Ngòi, Nhuộng, Phú Khê. Trên cơ sở các tổ chức quần chúng được phục hồi và phát triển, các chi bộ tổ chức huấn luyện Chương trình Việt Minh, tuyên truyền tài liệu, sách báo bí mật như báo Cứu quốc, Độc lập, Bắc Sơn khởi nghĩa. Nhờ đó phong trào và các cơ sở chính trị được củng cố chắc chắn. Khu vực bắc Ý Yên trở thành cơ sở an toàn của Tỉnh uỷ Hà Nam.
Trong đề lao Nam Định, cuộc đấu tranh đối mặt với kẻ thù của các chiến sĩ cách mạng diễn ra từng ngày, từng giờ. Hầu hết đảng viên và các quần chúng cách mạng mặc dù bị địch dùng cực hình tra tấn, chết đi sống lại vẫn tỏ rõ tinh thần anh dũng bất khuất, giữ vững khí tiết cách mạng đến cùng. Tấm gương của đồng chí Ngô Duy Phớn - người đã bị mật thám Nam Định tra tấn đến chết vẫn kiên cường bất khuất không khai báo nửa lời, khiến kẻ thù vô cùng khiếp sợ và anh em bạn tù hết sức khâm phục, quyết chí noi gương. Giữa nơi hang hùm, miệng sói ấy, Chấp uỷ được thành lập; những cuộc đấu tranh đòi cải thiện đời sống liên tiếp nổ ra.
Nhiều lớp học chính trị, văn hoá và sinh hoạt văn nghệ được tổ chức để nâng cao trình độ, rèn luyện khí tiết, tinh thần lạc quan cách mạng và tình hữu ái trong anh em.
Ngày 3-5-1941, thực dân Pháp đã đưa những chiến sĩ cách mạng ở đề lao Nam Định ra Toà Nam án để xét xử. Đoàn tù chính trị phạm đã tỏ rõ khí phách hiên ngang của người cộng sản trước toà và trước đông đảo nhân dân thành phố. Từ xe ô tô bước vào phòng xử án, các đồng chí đã hát vang những bài ca cách mạng. Khi kẻ thù tuyên án, các đồng chí đồng thanh hô vang khẩu hiệu Đả đảo đế quốc! Tấm gương của các chiến sĩ cộng sản và quần chúng cách mạng trong nhà tù đế quốc và trước toà thực dân đã làm bừng sáng ngọn lửa yêu nước trong các tầng lớp nhân dân Nam Định.
Sau khi chiếm được Đông Dương, phát xít Nhật tìm mọi cách thâu tóm quyền lực, loại bỏ dần vai trò, thế lực của thực dân Pháp. Tháng 12-1941, Pháp buộc phải ký Hiệp định nhường toàn quyền hành động cho Nhật ở Đông Dương. Nhân dân ta từ đây sống cảnh một cổ hai tròng trăm phần cực nhục.
Ngày 28-1-1941, đồng chí Nguyễn Ái Quôc từ nước ngoài về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng.
Trước đòi hỏi cấp bách của tình hình mới, Trung ương Đảng đã có chủ trương chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Ngày 28-1-1941, đồng chí Nguyễn Ái Quôc từ nước ngoài về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng. Dưới sự chủ trì của Người, tháng 5-1941 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập đã quyết định nhiệm vụ giải phóng dân tộc và đó là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị đã hoàn thiện các Nghị quyết 6, 7 của Trung ương về vấn đề dân tộc giải phóng và ra Nghị quyết nhấn mạnh: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được". Hội nghị chủ trương thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), xây dựng căn cứ địa cách mạng, chuẩn bị mọi mặt tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.
Đúng như Nghị quyết Trung ương 8 nhận định, trong cơn lốc chiến tranh, quyền lợi các giai cấp đều bị cướp giật. Các nhà máy của tư bản phải đóng cửa hoặc sản xuất cầm chừng. Tại Nam Định hàng vạn công nhân thất nghiệp phải trở về quê quán hoặc phiêu dạt đi nơi khác kiếm sống; công thương nghiệp của tư sản Việt Nam cũng trì trệ sa sút. Trong hoàn cảnh cơ cực ấy, phát xít Nhật còn bắt nhân dân phá ngô lúa sắp đến vụ thu hoạch để trồng đay, thầu dầu. Nó đã đẩy người nông dân tới cảnh điêu đứng khốn cùng. Nạn đói như bóng tử thần đang bao trùm lên đời sống nhân dân lao động. Tất cả mọi tầng lớp nhân dân đều cảm thấy ngột ngạt đang mong ngóng, đón đợi một sự thay đổi mới.
Ra đời vào giữa lúc lòng dân đang trông chờ cách mạng, Nghị quyết Trung ương 8 đã tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào cả nước cũng như tại Nam Định. Nhiều đảng viên và quần chúng cách mạng ở thành phố tuy không nhận được sự chỉ đạo trực tiếp của cấp uỷ vẫn âm thầm hoạt động, duy trì hộp thư sống để móc nối liên lạc với cấp trên.
Đầu năm 1943, sau một thời gian dài tìm cách khôi phục cơ quan lãnh đạo tỉnh và thực hiện Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng, nhiều lần công vận xứ đã cử cán bộ về đẩy mạnh công tác công vận ở những trung tâm công nghiệp. Đồng chí Tùng Giang được Xứ uỷ cử về Nam Định gầy dựng lại phong trào. Qua cơ sở Kiôt Thu Hương (tại vườn hoa Điện Biên), đồng chí Tùng Giang đã bắt liên lạc được với các đồng chí Bùi Xuân Mẫn, Bùi Thế Đạm, Trần Văn Hiển, Phạm Văn Yêng, Trần Đăng Bái và đã hình thành Ban cán sự Công vận tỉnh Nam Định, do đồng chí phụ trách. Ban cán sự dựa vào các gia đình cơ sở cũ chưa bị lộ để liên lạc và tổ chức hoạt động như gia đình bà Phạm Thị Chín ở ngõ Văn Nhân. Ban cán sự vừa làm nhiệm vụ công vận, vừa làm nhiệm vụ Ban cán sự Đảng.
Dựa vào Nghị quyết Trung ương 8, căn cứ vào tình hình cụ thể ở địa phương, Ban cán sự tập trung chỉ đạo một số công việc cần kíp nhằm mau chóng tập hợp các đảng viên vừa ở tù về làm hạt nhân lãnh đạo; xúc tiến tuyên truyền, giới thiệu chương trình đánh Pháp, đuổi Nhật của Mặt trận Việt Minh; tổ chức các đoàn thể cứu quốc, xây dựng lực lượng vũ trang; lãnh đạo quần chúng giành giật những quyền lợi sống còn trước mắt; phát triển phong trào về nông thôn.
Với sự chỉ đạo của Ban cán sự và những hoạt động tích cực của cán bộ, đảng viên, tuy trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn, hai chi bộ Đảng ở thành phố đã được phục hồi với 8 đảng viên, hầu hết là công nhân vừa ở tù ra. Ban cán sự cũng thiết lập được liên lạc với Xứ uỷ Bắc Kỳ. Tuy có nhiều cố gắng nhưng vì lực lượng cán bộ còn quá mỏng nên hoạt động của Ban cán sự và phong trào cách mạng trong tỉnh chủ yếu mới tập trung ở thành phố. Nhiều báo chí cách mạng như Cứu quốc, Cờ giải phóng... được chuyển về địa phương để lưu hành bí mật trong đảng viên và quần chúng cách mạng. Ban cán sự tổ chức một cơ sở in thạch ở phố Bờ Sông để in lại những tài liệu cần phổ biến rộng rãi. Nhiều đợt phát tán truyền đơn được tiến hành nhân dịp những ngày kỷ niệm lớn nhằm tố cáo tội ác của Nhật - Pháp, giới thiệu chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh, động viên tinh thần yêu nước thương nòi, ý chí cách mạng trong quần chúng. Đoàn Thanh niên Cứu quốc còn tổ chức những cuộc tranh luận nhỏ trong thanh niên, học sinh; vạch trần luận điệu xảo trá của giặc Nhật; đả phá tư tưởng thân Nhật, phục Nhật cũng như tư tưởng hoài nghi, yếm thế của một số người.
Các tổ chức cứu quốc được xây dựng và mở rộng. Công nhân Cứu quốc đã thu hút mấy chục thợ ở Nhà máy sợi, Nhà máy tơ, Nhà máy chiếu. Thanh niên Cứu quốc đã tập hợp một số học sinh các trường trung học, tích cực hoạt động truyền bá quốc ngữ. Phụ nữ Cứu quốc gây dựng cơ sở trong công nhân, tiểu thương.
Thực hiện chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang, năm 1944, các tổ hoặc đội tự vệ được thành lập ở nơi có phong trào khá. Đội tự vệ thành phố được thành lập với 10 đội viên, trang bị súng lục và các loại vũ khí thô sơ. Đội đã được học một lớp huấn luyện quân sự ở nhà ông Phạm Văn Thiện ở xóm Long Xuyên, xã Đà Xuyên gần chợ Chanh (Nhân Mỹ, Lý Nhân, Hà Nam). Các đội viên hoạt động rất tích cực, tổ chức cướp súng Nhật để trang bị, thường xuyên đi Hà Nội nhận truyền đơn về rải ở nội, ngoại thành. Tuy nhiên hoạt động của các đội viên cũng có biểu hiện của sự nóng vội, manh động, muốn trừ khử ngay những tên tay sai gian ác như đội Phong, đội Đỉnh. Tư tưởng này đã được kịp thời uốn nắn, tránh những tổn thất có thể xảy ra khi phong trào mới được nhen nhóm trở lại.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng Ban cán sự vẫn chỉ đạo và phát động công nhân đấu tranh dưới hình thức hợp pháp. Công nhân bị sa thải đòi chủ phải trả đủ lương, phụ cấp, được mua củi, diêm đầy đủ theo giá quy định. Điển hình nhất là cuộc đấu tranh của gần 300 công nhân Nhà máy tơ nhân ngày Quốc tế Lao động đã đóng máy tại chỗ, cử đại biểu đưa yêu sách đòi chủ không được đánh và dãn thợ.
Mặc dù phong trào đang được phục hồi nhưng ở thành phố, công nhân thất nghiệp ngày càng tăng. Từ năm 1940, do việc vận chuyển khó khăn, nguyên vật liệu thiếu thốn, quy mô sản xuất của nhà máy bị thu hẹp nên công nhân lại bị sa thải ngày càng nhiều. Năm 1942, công nhân Nhà máy sợi từ 14.400 người chỉ còn 5.484 người. Họ phải ly tán đi khắp nơi. Trong khi đó địch tăng cường khủng bố, kiểm soát gắt gao. Hoạt động cách mạng trên địa bàn thành phố rất khó khăn, hạn chế. Ban cán sự nhận thấy muốn đẩy mạnh phong trào vượt qua bước khó khăn này là phải mở rộng địa bàn về xây dựng cơ sở ở nông thôn làm điểm tựa và căn cứ địa để phát triển phong trào một cách toàn diện. Ban cán sự đã thông qua một số quần chúng cách mạng là công nhân, học sinh ở thành phố trở về nhà để mở rộng, xây dựng cơ sở cách mạng. Nhờ đó bước đầu tạo dựng được một số cơ sở ở nông thôn.
Ở Ý Yên, các chi bộ tích cực đẩy mạnh các hoạt động ở địa phương. Một số đảng viên ở Lỗ Xá đã liên hệ với Đảng bộ Ninh Bình, xây dựng cơ sở Việt Minh, phát động quần chúng đấu tranh chống lệnh phá màu trồng đay của Nhật, chống phụ thu lạm bổ thuế. Tại phía bắc huyện, nơi cơ sở cách mạng được phục hồi từ năm 1940 do Tỉnh uỷ Hà Nam chỉ đạo, phong trào phát triển khá mạnh. Các hội cứu quốc đã hình thành ở Nhuộng, Ngòi, Phường rồi lan rộng sang Phú Khê, Chuế Cầu. Nhuộng là nơi có phong trào cách mạng mạnh, nhân dân ở đây đã bảo vệ chu đáo cơ quan ấn loát của Liên Tỉnh uỷ C và Xứ uỷ. Chi bộ Đảng đã phát huy nhiều sáng kiến tổ chức những cuộc mít tinh có tới hàng trăm quần chúng tham dự ở rừng Bồng Lạng (Hà Nam). Nhân dịp ngày mất của vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, để tuyên truyền cho Mặt trận Việt Minh, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại Mơ Công, gây được ảnh hưởng lớn cho cách mạng, khơi dậy tinh thần yêu nước, khích lệ quần chúng sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến.
Trên cơ sở phong trào quần chúng phát triển mạnh, chi bộ Đảng ở Tiêu Bảng, Nhuộng đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống nộp thóc hợp đồng. Trong năm 1944, nhân dân ở đây không ai chịu nộp một hạt thóc. Tri huyện Ý Yên phải đưa lính về đốc thúc. Dưới sự chỉ đạo của chi bộ, quần chúng đã dùng đòn càn, gậy gộc để chống trả, buộc chúng phải rút lui.
Tiếp sau đó là cuộc đấu tranh của hàng trăm quần chúng biểu tình lên huyện đòi bán diêm, muối cho dân theo giá quy định, đủ định suất.
Ở Hoành Nha (Giao Thuỷ), Hội tương thân đã đấu tranh với cường hào, lý dịch đòi cấp lại công điền và trước sức ép mạnh mẽ của quần chúng, ngày 4-7-1943 tri huyện Giao Thuỷ đã phải chủ trì cuộc rút thăm chia lại ruộng.
Thông qua các đồng chí Đỗ Hàm và Bùi Đức Luân, chi bộ Lạc Nghiệp bắt liên lạc được với chi bộ Nguyệt Giám (Tiền Hải - Thái Bình) đã hoạt động trở lại. Chi bộ bí mật lập tổ Việt Minh và tự vệ bán vũ trang, tổ chức quyên tiền ủng hộ quỹ Việt Minh.
Đến giữa năm 1944, đồng chí Tùng Giang bắt liên lạc được với đồng chí Phạm Rỵ ở Lạc Nghiệp, Vũ Đức Âu ở Hoành Nha để chuyển báo Cứu quốc, Cờ giải phóng về một số cơ sở Đảng ở Xuân Trường, Giao Thuỷ. Phong trào cách mạng ở Hoành Nha, Trà Trung, Đông An, Lạc Quần, Lạc Nghiệp, Tự Lạc, Hội Khê, Hà Lạn... trở lại hoạt động với tinh thần khẩn trương, sôi nổi.
Tháng 7-1944, đồng chí Đức trong Ban cán sự tỉnh phải đổi đi nơi khác, Xứ uỷ cử đồng chí Nguyễn Danh Địch, cán bộ Nông vận của Xứ uỷ về bổ sung cho Ban cán sự Nam Định. Phong trào ở nông thôn càng được chú trọng đúng mức. Một loạt cơ sở cách mạng ở Nam Lạng, Sa Đê (Trực Ninh), Quần Phương (Hải Hậu), Hoành Nha (Giao Thuỷ), Trà Lũ (Xuân Trường), Mỹ Lộc được chắp nối. Ngoài ra Ban cán sự còn phát triển cơ sở sang làng Chanh (Hà Nam), Nội Lãng, Đại Đông, Hiệp Hoà (Thư Trì, Thái Bình).
Tháng 8-1944, Ban Cán sự tỉnh bắt liên lạc được với tổ chức Việt Minh ở Hào Kiệt (Vụ Bản), xây dựng được hai tổ Thanh niên Cứu quốc làm nòng cốt cho việc kêu gọi nhân dân chống sưu cao, thuế nặng, chống Nhật bắt nhổ lúa trồng đay, thu thóc tạ. Tại xóm Mai (Trung Thành) tổ chức cứu quốc tổ chức rải truyền đơn tuyên truyền đường lối của Mặt trận Việt Minh, treo cờ đỏ sao vàng ở núi Gôi, nhà ga Trình Xuyên...
Cũng từ giữa năm 1944, nhiều cơ sở cách mạng được xây dựng ở khu vực nông thôn Nam Định do nhiều nguồn và nhiều cách khác nhau. Cùng với sự xuất hiện của các tổ chức Công nhân Cứu quốc, lực lượng tự vệ trong công nhân cũng hình thành. Lúc đầu lực lượng tự vệ do những công nhân thất nghiệp sống ở ngoài nhà máy đã cùng với nông dân, nhân dân đường phố lập ra mà tiêu biểu là các đội tự vệ công nhân ở các thôn Mai Xá, Mỹ Trọng, An Duyên (Mỹ Lộc). Lại có nhiều công nhân, đảng viên lập nghiệp ở tỉnh ngoài trở về quê Nam Định, chủ động đứng ra tổ chức quần chúng rồi liên lạc với Ban Cán sự như Nam Lạng, Sa Đê (Trực Ninh), Quần Phương (Hải Hậu), Hoành Nha (Giao Thuỷ). Cũng có nơi như ở Xuân Trường, Mỹ Lộc được Ban cán sự chắp mối lại. Ngoài ra, một số vùng như Chanh (Lý Nhân, Hà Nam), Nội Lãng, Mỹ Lộc, Đại Đồng, Hiệp Hoà (Thư Trì, Thái Bình) được Ban Cán sự phát triển và xây dựng cơ sở cách mạng.
Phong trào cách mạng Nam Định đang trên hướng phát triển thuận lợi thì địch lại tập trung khủng bố. Suốt sáu tháng cuối năm 1944, địch đã tổ chức năm lần vây ráp, chúng đã bắt được hai đồng chí uỷ viên Ban cán sự và trên 20 đảng viên, quần chúng cách mạng đưa đi cầm tù; chỉ còn đồng chí Tùng Giang nhưng cũng mất liên lạc với cấp trên. Cơ sở Đảng ở thành phố và cả ở Nhuộng cũng bị triệt phá.
Một số Cơ sở ở thành phố và vùng nông thôn tuy còn tiếp tục hoạt động nhưng cũng chỉ đơn lẻ. Liên lạc giữa Xứ uỷ với Nam Định bị gián đoạn.
Gần sáu năm (1939-1945), thực hiện sự chỉ đạo chuyển hướng chiến lược, tích cực tích luỹ, xây dựng lực lượng cho cách mạng là quá trình Đảng bộ và nhân dân Nam Định kiên cường đấu tranh chống những cuộc khủng bố diễn ra liên tiếp của địch. Có những đợt kéo dài hàng nửa năm trời khiến cho phong trào địa phương vô cùng khó khăn, gặp những tổn thất nặng nề. Gần hai trăm cán bộ, đảng viên bị bắt và cầm tù. Ba năm liền cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ không xây dựng lại được. Nhưng với truyền thống yêu nước đã được rèn luyện qua nhiều thử thách, với lòng tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào cách mạng, mặc dù thiếu cấp uỷ lãnh đạo, một số đảng viên vẫn tự xây dựng cơ sở, giữ vững tinh thần, hướng dẫn quần chúng đấu tranh và lòng dân vẫn như bếp lửa than hồng hướng đợi luồng gió cách mạng. Nhờ vậy, từ khi Đảng bộ được khôi phục, phong trào đã nhanh chóng phát triển. Đặc biệt, nhiều cơ sở, địa phương bị chà đi xát lại nhiều lần nhưng vẫn đứng vững và trở thành cơ sở vững chắc của Xứ uỷ và Liên Tỉnh uỷ C.
Từ mọi mưu đồ triệt phá của kẻ thù, Đảng bộ Nam Định đã đào luyện được đội ngũ cán bộ, đảng viên ưu tú, vững vàng về quan điểm lập trường cách mạng, trung thành vô hạn với lý tưởng của Đảng, luôn luôn chủ động sáng tạo, trong mọi tình huống, sẵn sàng hiến dâng thân mình cho mục tiêu giành độc lập, tự do cho dân tộc. Tinh thần chiến đấu, sự hy sinh lớn lao đó của những người cộng sản đã khiến kẻ thù phải kính nể, nhân dân ngưõng mộ, tin yêu, sẵn sàng đùm bọc, che chở và giúp đỡ cách mạng. Một đội ngũ cán bộ, đảng viên tận tuỵ, một lớp quần chúng trung kiên đã được thử thách, rèn luyện. Những nhân tố đó là tiền đề vật chất mà Đảng bộ đã dày công chuẩn bị trước khi bước vào cao trào cách mạng mạnh mẽ của cả dân tộc.
IV. ĐẢNG BỘ NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO GIÀNH CHÍNH QUYỀN 1945
1. PHÁT ĐỘNG CAO TRÀO KHÁNG NHẬT, CỨU NƯỚC
Đầu năm 1945, Hồng quân Liên Xô đã quét sạch kẻ thù ra khỏi bờ cõi và tiếp tục truy kích chúng đến hang ổ Đức quốc xã. Trên mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật cũng bị giáng những đòn chí tử và ngày càng bị đẩy vào tình thế khốn cùng. Trục phát xít Đức - Ý - Nhật đang đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt.
Ở Đông Dương, mâu thuẫn Nhật - Pháp đã gay gắt tới cực điểm. Bọn Pháp phái Đờ Gôn đang nung nấu chí phục thù phát xít Nhật để khôi phục lại quyền thống trị của chúng ở xứ Đông Dương. Trong giờ phút nguy khốn, để tránh họng súng của Pháp chĩa vào sau lưng khi quân Đồng minh kéo vào, Nhật buộc phải làm cuộc đảo chính để hất cẳng Pháp nhằm độc chiếm Đông Dương.
Đêm 9-3-1945, cùng một lúc trên toàn cõi Đông Dương, quân Nhật đồng loạt nổ súng tấn công Pháp và chỉ gặp sự chống cự rất yếu ớt ở một số nơi cho nên chưa đầy một ngày chúng đã làm chủ tình thế.
Trước tình hình chuyển biến hết sức mau lẹ ở trong nước và trên thế giới, từ ngày 9 đến ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng tại Từ Sơn (Bắc Ninh). Đồng chí Trưòng Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đã chủ trì Hội nghị. Sau khi phân tích tình hình mọi mặt, Hội nghị nhận định rằng, cuộc đảo chính Nhật - Pháp đã tạo ra tình hình khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa vũ trang cách mạng đi đến chín muồi nhanh chóng, do đó đã đến lúc phải phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa.
Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta đã trở thành một văn kiện hết sức quan trọng để chỉ đạo mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân trong cao trào kháng Nhật, cứu nưóc.
Tại Nam Định, đêm 9-3-1945 từ 21 giờ đến 23 giờ, Nhật tiến hành đảo chính hất cẳng Pháp. Trên địa bàn thành phố Nam Định, quân Pháp đông gấp năm lần quân Nhật nhưng hầu như không dám kháng cự, vội vã đầu hàng. Hệ thống nguỵ quyền từ tỉnh xuống xã như rắn mất đầu hết sức hoang mang.
Ngay sau khi hất cẳng Pháp, Nhật ráo riết thi hành chính sách thống trị phát xít, một mặt ra sức vơ vét nhân tài vật lực dốc vào chiến tranh phát xít, mặt khác thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng Đông Dương.
Ngày 17-4-1945, Nhật nặn ra Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim với chiêu bài độc lập giả hiệu để lừa bịp nhân dân. Hệ thống chính quyền từ tỉnh, phủ xuống huyện được khoác cái tên mới. Tổng đốc được đổi gọi là tỉnh trưởng; tri phủ, tri huyện là huyện trưởng; lính khố xanh đổi làm bảo an binh... do chúng điều hành sử dụng. Cùng với sự ra đời của nội các Trần Trọng Kim, các tổ chức thân Nhật cũng xuất hiện và ráo riết hoạt động. Ngoài việc duy trì bộ máy chính quyền cũ, Nhật cất nhắc những tên Việt gian tay sai được chúng nuôi dưỡng vào những vị trí quan trọng trước đây do Pháp nắm giữ. Được Nhật nâng đỡ, bọn thân Nhật lập ra cái gọi là uỷ ban phụng sự quốc gia, Đoàn thanh niên xã hội làm chỗ dựa và hậu thuẫn cho chính quyền bù nhìn. Thông qua những tổ chức tay sai đó, chúng ra sức khua chiêng, gõ trống, tuyên truyền rùm beng cho chính sách Đại Đông Á và nền độc lập bánh vẽ ở Việt Nam. Chúng còn tổ chức mít tinh, triển lãm, chiếu bóng và bày trò truy điệu các nghĩa sĩ Việt - Nhật để gây tâm lý thân, phục Nhật. Đối với vùng nông thôn, chúng còn lập ra một số tổ chức thân Nhật như Bạch xỉ tiên cừu, Đại Việt duy dân.
Song song với thủ đoạn lừa bịp về chính trị, Nhật còn tăng cường các hoạt động quân sự. Ngoài việc chiếm đóng các vị trí của Pháp, chúng ra sức tăng cường lực lượng ở những nơi xung yếu, điều thêm một trung đội lính xuống đóng ở Văn Lý (Hải Hậu) để kiểm soát bờ biển. Bảo an đoàn - một tổ chức bán vũ trang của chính quyền bù nhìn được xây dựng ở khắp các thôn xóm, khu phố. Tổ chức mật thám được bổ sung thêm những tên tay sai đắc lực đặt dưới quyền kiểm soát của hiến binh Nhật. Những hành động đàn áp, dò bắt cán bộ và cơ sở cách mạng liên tiếp diễn ra, nhất là ở thành phố. Chúng tăng cường bắt thanh niên đi lính làm bia đỡ đạn cho chúng ở khắp các chiến trường.
Về kinh tế, chúng bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, gai, thầu dầu, tăng cưòng vơ vét thóc gạo để nấu cồn thay xăng phục vụ cho cuộc chiến phi nghĩa của chúng. Cùng với thiên tai liên tiếp xảy ra vào cuối năm 1944 đầu năm 1945, chính sách vơ vét kinh tế của phát xít Nhật đã gây ra bao thảm hoạ cho nhân dân ta. Nạn đói đang đe doạ trầm trọng. Giữa lúc đó, chúng lại đình chỉ bán gạo cho dân, tung bừa giấy bạc loại 50 đồng và 100 đồng ra thị trường mua vét thóc gạo, đầu cơ tích trữ lương thực. Hậu quả đau xót do chính sách phát xít hoá của Nhật gây ra là 212.218 người dân Nam Định đã gục chết đói thê thảm, ở huyện Giao Thuỷ có tới 17.000 người chết đói (hai xóm Lâm Thọ và Lâm Quý có 105 hộ thì 89 hộ chết không còn người nào). Huyện Xuân Trưòng số bị chết đói lên tới 19.000 người. Hai huyện Nam Trực, Trực Ninh có 60.543 người bị chết đói. Tất cả những hành động cướp của, giết người của giặc Nhật đã làm trào dâng ngọn sóng căm phẫn trong mọi tầng lâp nhân dân.
Mặc dù phát xít Nhật cố dốc sức lực để đàn áp phong trào cách mạng, song thực tế diễn ra đúng như nhận định của Thường vụ Trung ương Đảng: "Cuộc đảo chính Nhật - Pháp đã dẫn đến cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc". Trong khi chính quyền Pháp tan rã hoàn toàn thì chính quyền Nhật chưa đi vào ổn định. Bọn tay sai đang bàng hoàng trước cảnh thay thầy đổi chủ quá đột ngột, còn nhân dân lao động, nhất là công nhân và nông dân sống ngột ngạt, bần cùng dưới ách áp bức của Nhật lại hết sức phẫn uất, sẵn sàng vùng lên lật đổ bọn phát xít và tay sai. Nhiều nơi, quần chúng đã phá huỷ tài sản của Nhật như đốt kho xăng dầu ở bến đò Chè (thành phố Nam Định), đốt kho đay ở làng Gạo (Vụ Bản). Một số viên chức, trí thức lúc đầu bị đánh lừa bởi những trò hề bịp bợm qua thực tế đã thức tỉnh và nhận rõ chân tướng của giặc.
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) thành lập ngày 22/12/1944.
Nhật cùng cái thây ma chính trị do chúng dựng lên chỉ là một số ít những kẻ có nợ máu với cách mạng, quyền lợi hiện đang gắn bó với bọn xâm lược, rắp tâm cộng tác với kẻ thù của dân tộc.
Mặc dù chưa liên lạc được với Trung ương và chưa có sự chỉ đạo thống nhất trong toàn tỉnh, nhưng nhiều đảng viên ở cơ sở đã biết đón thời cơ, chủ động đẩy mạnh các hoạt động, đưa phong trào tiến thêm một bước. Nhiều đồng chí sau khi thoát khỏi nhà tù đế quốc, chưa bắt được liên lạc đã đi lần tìm, móc nối với nhau để hoạt động. Việc các đồng chí trở về tham gia đội ngũ cách mạng đã đáp ứng kịp thời yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong tình thế hết sức cấp bách lúc bấy giờ.
Tháng 4-1945, cơ quan lãnh đạo Tỉnh uỷ được Xứ uỷ bổ sung thêm một số đồng chí nhờ đó Ban cán sự được kiện toàn gồm đồng chí Tùng Giang, Trung Dụy, Phạm Ngọc Hồ do đồng chí Tùng Giang làm Trưởng ban. Trong cuộc họp đầu tiên, Ban cán sự đã bàn và phân công phụ trách phong trào ở các địa bàn, tìm cách chắp nối, phục hồi các cơ sở cách mạng, nhất là phong trào ở các huyện phía nam tỉnh như Trực Ninh, Nam Trực, Xuân Trường. Để chỉ đạo sát đúng phong trào địa phương, Xứ uỷ cử đồng chí Hà Kế Tấn (Xứ uỷ viên) trực tiếp phụ trách phong trào cách mạng Nam Định và Hà Nam. Tháng 5-1945, đồng chí Hà Kế Tấn về Nam Định, triệu tập Hội nghị Ban cán sự tại Quần Liêu (Nghĩa Hưng). Tại Hội nghị này, Ban cán sự tỉnh được Xứ uỷ chính thức công nhận do đồng chí Phạm Ngọc Hồ làm Trưởng ban.
Sau khi nghiên cứu Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta và thống nhất nhận định phong trào cách mạng địa phương lúc này có nhiều điều kiện khách quan thuận lợi, kẻ địch đang trong tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Nhân dân, đặc biệt là quần chúng lao động đang sục sôi căm thù phát xít Nhật và mong chờ cách mạng. Tuy nhiên, nạn đói cũng đang gây nhiều khó khăn cho hoạt động của quần chúng. Hội nghị cũng thảo luận khắc phục những tư tưởng hữu khuynh, không dám hoạt động mạnh, sợ địch tiếp tục khủng bố và tư tưởng thiếu tin tưởng vào quần chúng đang trong cơn đói rách. Hội nghị quyết định nhiệm vụ lúc này là phải đi sâu vào quần chúng, nhanh chóng phát triển lực lượng, phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, đón thời cơ khởi nghĩa và đề ra một số việc cần kíp:
1- Phát động mạnh mẽ cao trào kháng Nhật,cứu nước.
2- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú, vạch trần luận điệu lừa bịp của Nhật, tố cáo tội ác của chúng, kêu gọi nhân dân vùng dậy đánh đuổi giặc Nhật, giành độc lập thật sự cho dân tộc.
3- Khẩn trương tiến hành vũ trang cho quần chúng cách mạng, xây dựng tự vệ chiến đấu, sắm sửa vũ khí, luyện tập quân sự.
4- Thành lập đội vũ trang tuyên truyền và tập trung lãnh đạo về nông thôn.
5- Phân công các uỷ viên Ban cán sự tỉnh phụ trách phong trào.
Tuy Hội nghị Quần Liêu chưa chú ý một cách toàn diện đến công tác xây dựng Đảng, chưa gắn được khẩu hiệu đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị, chưa đặt được vấn đề giải quyết nạn đói cho dân, nhưng Hội nghị Quần Liêu đã đánh dấu một bước quan trọng trong việc thực hiện những chủ trương, đường lối của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể ở địa phương, đề ra được chủ trương và phương thức hoạt động thích hợp trong điều kiện tiền khởi nghĩa. Đặc biệt chủ trương tăng cường chỉ đạo, đẩy mạnh phong trào ở nông thôn đã khắc phục được những thiếu sót trước đây, tạo thế và chỗ đứng vững chắc để có thể phát triển toàn diện phong trào cách mạng trong tỉnh.
Giữa lúc tình thế xoay chuyển nhanh chóng, có lợi cho cách mạng thì phong trào cách mạng ở Nam Định lại được tăng cường thêm lực lượng. Nhiều cán bộ, đảng viên vừa thoát khỏi nhà tù đế quốc vừa về tới địa phương đã kịp thời nắm bắt tình hình và chủ trương của Đảng đã lao ngay vào hoạt động bất chấp sự theo dõi, khống chế của kẻ thù. Đây thực sự là lực lượng quý báu, bởi các đồng chí đã qua nhiều lần tù đày, được rèn luyện về lý luận cách mạng và thực tế đấu tranh, có nhiều kinh nghiệm hoạt động, nên hết sức nhạy bén và hành động kịp thời.
Sau khi Nghị quyết của Hội nghị Quần Liêu được truyền đạt tới cơ sở, phong trào cách mạng ở địa phương trỗi dậy mạnh mẽ. Bất chấp sự rình rập, kiềm toả của phát xít Nhật, sách báo của Đảng được lưu hành rộng rãi trong quần chúng. Ban cán sự đặc biệt coi trọng các hình thức phát tán truyền đơn, tuyên truyền xung phong, mít tinh, biểu tình vạch tội ác phát xít Nhật và tay sai, kêu gọi mọi người tham gia Mặt trận Việt Minh để đánh đổ phát xít. Ở các huyện phía nam tỉnh, truyền đơn được rải ở nhiều xã của ba huyện Nghĩa Hưng, Xuân Trường, Giao Thuỷ. Truyền đơn Kháng Nhật, cứu nước của Tổng bộ Việt Minh còn bí mật lọt vào các công sở, trại lính, ngay cả phòng làm việc của chỉ huy Nhật, bảo an binh, nơi công đường của tỉnh trưởng, huyện trưởng... Đặc biệt Đội Tuyên truyền xung phong của tỉnh do đồng chí Minh Vân là đội trưởng hoạt động rất tích cực với nhiều hình thức như mít tinh có bắn súng, đốt pháo, trương cờ đỏ sao vàng, phát tán truyền đơn và diễn thuyết liên tiếp diễn ra ở các chợ Cát Xuyên, Trà Trung (Xuân Trường), Cổ Lễ, Ninh Cường, Chợ Giá (Trực Ninh), đình làng Hưng Đễ (Nam Trực). Noi gương Đội Tuyên truyền xung phong, các huyện Xuân Trường, Ý Yên cũng tranh thủ các buổi họp chợ để tổ chức diễn thuyết. Đội Tuyên truyền vũ trang huyện Ý Yên tổ chức nhiều cuộc diễn thuyết ở các chợ Thành Cách, Khoái, Nghè, Chanh, Nhuộng để nói rõ nỗi thống khổ của nhân dân và nạn đói là do Nhật gây ra, kêu gọi nhân dân tham gia và ủng hộ Việt Minh cứu nước. Những cuộc diễn thuyết trên thu hút hàng ngàn người đến dự. Tin Việt Minh diễn thuyết có cờ đở sao vàng, có bắn súng lan đi rất nhanh gây hưng phấn trong nhiều quần chúng. Một số Thanh niên Cứu quốc ở Hoành Nha cũng tổ chức diễn thuyết xung phong tại chợ Bể (Giao Thuỷ). Bà con bàn tán sôi nổi về Việt Minh, coi Việt Minh là vị cứu tinh của nhân dân trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng này. Những hoạt động đó khiến cho thanh thế của Mặt trận Việt Minh lên cao chưa từng thấy. Đó cũng là những tín hiệu về một cuộc cách mạng sắp nổ ra.
Với những nỗ lực phát triển phong trào, xây dựng cơ sở về vùng nông thôn nên phong trào cách mạng phát triển và là chỗ dựa vững chắc cho phong trào toàn tỉnh, hỗ trợ đắc lực cho phong trào thành phố đang từng bước hồi phục sau nhiều đợt khủng bố của kẻ thù.
Được sự chỉ đạo sát đúng của Ban cán sự tỉnh, với chính sách đoàn kết toàn dân của Đảng, các tổ chức Việt Minh đã thu hút được mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Ngoài lực lượng chính là công nhân, nông dân, thanh niên, học sinh ở thành phố còn lôi kéo được một số tư sản và con cái của họ. Nhiều tiểu thương, tiểu chủ cũng tham gia ủng hộ cách mạng. Một số địa chủ ở nông thôn và một số vị chức sắc của các tôn giáo cũng nhận rõ đường lối cứu nước đúng đắn của Mặt trận Việt Minh, đã công khai hoặc bí mật ủng hộ Mặt trận.
Các cơ sở cứu quốc phát triển rất nhanh trong toàn tỉnh. Thanh niên Cứu quốc là tổ chức thu hút quần chúng đông đảo nhất. Lực lượng Tự vệ Cứu quốc được xây dựng hàng loạt, nhất là ở những nơi có phong trào khá. Tại các huyện Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Ý Yên mỗi huyện có tới hàng chục xã xây dựng được cơ sở Việt Minh. Các huyện Trực Ninh, Nghĩa Hưng, Nam Trực còn thành lập Ban vận động Việt Minh huyện. Đặc biệt ở những nơi có đông đồng bào theo đạo Thiên Chúa như ở Ninh Cường, Lác Môn (Trực Ninh), Quần Phương (Hải Hậu), Quỹ Nhất, Quần Liêu (Nghĩa Hưng) đồng bào cũng tích cực tham gia các tổ chức cứu quốc.
Ở một số vùng như Mỹ Trọng (ngoại thành Nam Định), Lương Kiệt, Hào Kiệt (Vụ Bản), Thượng Đồng (Ý Yên) một số đảng viên, quần chúng cách mạng mặc dù chưa bắt liên lạc được với các tổ chức Đảng vẫn tiến hành phổ biến các chủ trương của Đảng và Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, tập hợp quần chúng, tổ chức lực lượng để đón thời cơ sẵn sàng khởi nghĩa.
Trước cao trào cách mạng ngày càng dâng cao, các tổ chức Thanh niên xã hội, Bảo an đoàn của bọn tay sai thân Nhật, tuân lệnh quan thầy cũng ra sức đi tuyên truyền cho chính phủ bù nhìn và bọn phát xít nhưng đi đến đâu chúng cũng bị quần chúng lật tẩy. Luận điệu tuyên truyền lừa bịp của Nhật bị bóc trần. Một số nơi ở Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Nam Trực, Xuân Trường, Giao Thuỷ ta đã đưa quần chúng tốt vào tổ chức Bảo an đoàn để phối hợp với Tự vệ Cứu quốc tổ chức canh gác, bảo vệ các cuộc họp của Đảng, giữ an ninh nơi xóm làng. Nhờ có chủ trương đúng đắn và kịp thời đó, nhiều tổ chức của địch đã được hướng vào làm những việc xã hội có ích cho dân. Nhiều bảo an binh trở thành quần chúng cách mạng. Đội bóng đá Trực Ninh hoạt động hợp pháp đã trở thành nơi tập hợp quần chúng của cách mạng.
Để thúc đẩy cao trào kháng Nhật, củng cố tổ chức, Ban Cán sự Nam Định đã mở một lớp huấn luyện cấp tốc cho cán bộ cơ sở hai huyện Trực Ninh, Nghĩa Hưng bồi dưỡng về tình hình và nhiệm vụ cách mạng, Chương trình và Điều lệ của Mặt trận Việt Minh cũng như công tác chuẩn bị khởi nghĩa, ở Tiêu Bảng (Ý Yên) còn mở được một lớp huấn luyện theo Chương trình của Mặt trận Việt Minh. Trên cơ sở các lớp bồi dưỡng chính trị và đoàn thể cứu quốc được tổ chức, Đảng bộ phát động các tổ chức cơ sở cách mạng hưởng ứng phong trào sắm vũ khí, đuổi thù chung.
Như được tiếp thêm luồng sinh khí mới, các cơ sở đều ra sức rèn sắm vũ khí. Các đội viên tự vệ, mỗi người tự trang bị cho mình một loại vũ khí thô sơ. Riêng lực lượng vũ trang ở Ngòi, Nhuộng được sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ Hà Nam đã mua được súng ngắn, tước được súng trường của chánh tổng làng Nghè để trang bị cho cán bộ và đội viên.
Gần sát thời kỳ khởi nghĩa, các hình thức đấu tranh càng thêm sôi động và quyết liệt, từ hình thức vận động cứu đói thông thường như kêu gọi tương trợ, lạc quyên trong nhân dân đến hình thức khất thực buộc các nhà giàu phải cho nhân dân vay. Quyết liệt hơn nữa là Việt Minh ở Lương Kiệt (Vụ Bản) đã tổ chức cho quần chúng phá kho đay của Nhật ở đình làng chia cho dân. Bọn thống trị biết mà đành bó tay.
Trước khí thế cách mạng lên cao, quần chúng khắp các địa phương đã vùng dậy trấn áp bọn tay sai. Tại Thượng Đồng (Ý Yên), tên lý trưởng gian tham đã bị nhân dân đưa ra vạch tội. Lực lượng cách mạng đã trừng trị tên chánh bảo an ở Nhuộng ngoan cố có hành động chống phá cách mạng. Thư cảnh cáo đã bỏ vào tận nhà, đầu giường của Huyện trưởng Nghĩa Hưng và một số tay sai gian ác khác. Cờ, ảnh của Nhật và bù nhìn ở Phòng thông tin Hành Thiện (Xuân Trường) bị xé tan. Cờ đở sao vàng được cắm ngay trên nóc trụ sở Bảo an huyện Xuân Trường và đồn đoan Ngô Đồng (Giao Thuỷ), huyện đường ở Bo (Ý Yên).
Trong bối cảnh phong trào cách mạng toàn quốc đang dâng cao, những hoạt động ở địa phương đã làm tê liệt ý chí, hành động chống phá cách mạng của chính quyền bù nhìn huyện, xã - nhất là sáu huyện phía nam của tỉnh. Huyện trưởng Xuân Trường được tin báo có Việt Minh ở Trà Trung, Tự Lạc đã làm ngơ. Huyện trưởng Nghĩa Hưng đang đốc thóc ở Quỹ Nhất, nhận được thư cảnh cáo của Việt Minh, hoảng hốt bỏ cả công việc mà về. Hai huyện trưởng Trực Ninh và Nam Trực đang coi đắp đê ở Cổ Lễ và Quy Phú được tin Việt Minh diễn thuyết, bắn súng ở ngay chợ Cổ Lễ đã chạy về huyện lỵ. Trừ một vài cường hào còn tỏ ra mẫn cán, còn nhìn chung các tổng lý đều an phận thủ thường và có người còn ngả theo cách mạng.
Cao trào kháng Nhật dâng cao trong toàn quốc và những hoạt động mạnh mẽ ở ngay địa phương đã gây hoang mang và phân hoá sâu sắc hàng ngũ kẻ thù. Chính quyền huyện xã một số nơi tê liệt ý chí kháng cự. Trước làn sóng cách mạng, trừ một số tên tay sai, địa chủ gian ác có nợ máu với cách mạng còn ngoan cố ôm chân Nhật, còn lại hầu như đều bất lực, run sợ nằm im. Có nơi, Việt Minh hoạt động công khai, luyện tập quân sự cả ban ngày mà Nhật đành bó tay.
Phong trào cách mạng Nam Định đang phát triển rộng khắp thì tháng 6-1945, một đợt khủng bố tràn lan của địch lại diễn ra trên địa bàn thành phố. Gần 100 cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng bị bắt trong đó có cả đồng chí Trung Dụy - uỷ viên Ban Cán sự được phân công phụ trách thành phố và ba huyện Mỹ Lộc, Ý Yên, Vụ Bản.
Vụ khủng bố này nằm trong mưu đồ trấn áp tràn lan của phát xít Nhật hòng chặn đứng, gây tổn thất rất nặng cho phong trào cách mạng thành phố. Hầu hết các cơ sở cách mạng vừa được phục hồi và xây dựng thêm đều bị phá vỡ. Mặc dù vậy, một số ít cơ sở Việt Minh trong công nhân, thanh niên, học sinh, phụ nữ, bảo an binh vẫn tiếp tục hoạt động. Thành phố vẫn là cơ sở để cán bộ Xứ uỷ đi về giữ liên hệ với tỉnh.
Sau đợt khủng bố một thời gian ngắn, Ban Cán sự kịp thời bổ sung thêm đồng chí Nguyễn Việt Hùng để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh với các huyện giữa lúc tình thế cách mạng chuyển biến hết sức mau lẹ. Thời cơ giành chính quyền đã đến gần.
Giờ khởi nghĩa đã điểm!
Từ ngày 17-8 đến ngày 21-8, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh, nhân dân ở các địa phương đã nhất tề nổi dậy đập tan bộ máy thống trị của đế quốc, phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân.
2. KHỞI NGHĨA GIANH CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
Trong khoảng thời gian rất ngắn (từ ngày 9-3-1945 đến tháng 8-1945), Đảng bộ Nam Định đã gấp rút xây dựng lực lượng, chuẩn bị mọi mặt cho tổng khởi nghĩa một cách chu tất, toàn diện. Tuy lúc này phong trào ở thành phố bị khủng bố, triệt phá dữ dội nhưng nhìn chung toàn tỉnh phong trào phát triển nhanh, vững mạnh và có bước nhảy vọt thành cao trào cách mạng, sẵn sàng đón thời cơ khởi nghĩa. Trong quá trình chỉ đạo của mình, Đảng bộ đã quán triệt, vận dụng các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng vào thực tiễn địa phương một cách đúng đắn, linh hoạt. Ban cán sự đề ra phương hướng chặt chẽ, thống nhất. Cán bộ và đảng viên quyết tâm, tận tuỵ. Quần chúng sẵn sàng vùng dậy khởi nghĩa. Lực lượng trung gian cũng đã được tuyên truyền ngả về phía Việt Minh. Những yếu tố trên là sức mạnh nội tại đảm bảo chắc chắn cho thắng lợi của cách mạng.
Trong khi ấy, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đã bước vào giai đoạn cuối. Ngày 9-5-1945, Đức phải ký hiệp ước đầu hàng Liên Xô và phe Đồng minh không điều kiện. Giờ tận số của phát xít Nhật đã điểm. Sau đòn sấm sét của Hồng quân Liên Xô đánh vào Đông - Tam - Tỉnh, ngày 13-8-1945, Nhật Hoàng cũng phải ký hiệp ước đầu hàng. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc tạo điều kiện khách quan hết sức thuận lợi cho nhân dân Việt Nam vùng lên giành chính quyền về tay mình. Vào thời điểm sống còn, Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước nổi dậy giành chính quyền và nhấn mạnh: "Hiện nay quân đội Nhật đã tan rã, phong trào cứu quốc lan tràn khắp nước...
Giờ quyết định cho vận mệnh của dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta...
Chúng ta không thể chậm trễ".
Ở Đông Dương, quân đội Nhật hết sức hoang mang, rệu rã, Chính phủ Trần Trọng Kim hoàn toàn bị tê liệt. Một số bộ trưởng đã xin từ chức. Trong khi đó phát xít Nhật và bọn tay sai bán nước vẫn ngoan cố bám giữ sự thống trị trong cơn hấp hối. Mặc dù vậy, những cố gắng cuối cùng để lừa dân, ôm chân đế quốc của chúng đã bị nhân dân vạch mặt.
Trước những diễn biến thuận lợi đó, ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định Tổng khởi nghĩa. Cũng trong đêm 13-8, uỷ ban khởi nghĩa phát quân lệnh và ngay lập tức, lệnh khởi nghĩa được truyền đi khắp nước. Toàn dân sẵn sàng nổi dậy, triệu người như một.
Lúc này, Ban Cán sự tỉnh đang tập trung chỉ đạo phong trào ở các huyện phía nam. Mặc dầu chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, nhưng do nắm chắc chủ trương của Đảng nên ngay chiều 15-8 khi các đồng chí lãnh đạo tỉnh nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, tin nhân dân Hà Nội đang sục sôi chuẩn bị khởi nghĩa đã triệu tập các uỷ viên Ban Cán sự và một số cán bộ chủ chốt ở Trực Ninh, họp khẩn cấp tại gia đình ông Nguyễn Đình Phung thôn Trung Lao (Trực Ninh) quyết định phát lệnh khởi nghĩa. Trong điều kiện chưa chỉ đạo khởi nghĩa đồng loạt trong toàn tỉnh, Hội nghị thống nhất quyết định khởi nghĩa giành chính quyền ở các huyện phía nam trước, nhanh chóng phát triển lực lượng cách mạng ra tất cả các huyện, sau đó tiến lên giành chính quyền tỉnh ở thành phố Nam Định. Huyện Trực Ninh được chọn làm đột phá khẩu cho khởi nghĩa toàn tỉnh.
Tại huyện Trực Ninh: Đây là nơi có cơ sở cách mạng và lực lượng cách mạng mạnh hơn cả, lại cách xa thành phố nên khi khởi nghĩa nổ ra, địch không thể ứng cứu kịp thời. Ban Cán sự lại đang tập trung chỉ đạo ở Trực Ninh nên nắm chắc tình hình trong huyện. Huyện trưởng mới là Từ Đông mới về nhận chức còn đang lạ lẫm; ta lại có nhân mối trong hàng ngũ địch. Các điều kiện đó chính là thời cơ thuận lợi nhất để phát động quần chúng đấu tranh khởi nghĩa giành chính quyền.
Kế hoạch khởi nghĩa được chuẩn bị hết sức khẩn trương trong không khí sôi sục tại thôn Nam Lạng, tổng Văn Lãng (cách huyện lỵ Trực Ninh 2 km). Quần chúng Việt Minh và tự vệ được khẩn trương tập trung. Đội Tuyên truyền vũ trang tỉnh Nam Định do đồng chí Phạm Ngọc Hồ phụ trách là lực lượng xung kích cho khởi nghĩa. Lực lượng Thanh niên Cứu quốc huyện Trực Ninh được huy động về trợ lực. Quần chúng khẩn trương may băng cờ, viết khẩu hiệu. Các đội viên tự vệ tranh thủ sửa chữa vũ khí, luyện tập quân sự. Đêm 16- 8, uỷ ban khởi nghĩa ban bố lệnh giới nghiêm toàn thôn Nam Lạng. Tự vệ Cứu quốc ở Sa Đê, Trung Lao, Xối Đông Hạ, Hạ Đồng, Ngọc Giả và tổng Văn Lãng được lệnh của uỷ ban khởi nghĩa đã tập trung đông đủ, tranh thủ ôn luyện các động tác chiến đấu, sửa chữa vũ khí. Vào hồi 15 giờ ngày 17-8 lực lượng cách mạng địa phương xuất phát theo đúng kế hoạch. Một mũi tự vệ có trang bị vũ khí thô sơ bố trí mai phục phía sau huyện lỵ để đánh tập hậu. Mũi chính gồm có Đội Tuyên truyền vũ trang tỉnh và quần chúng cách mạng khoảng gần 100 người có trang bị 1 tiểu liên, 2 súng ngắn, 2 súng bắn chim cùng giáo mác, gậy gộc, hàng ngũ chỉnh tề, với cờ đở sao vàng tiến về huyện đường. Qua 2 km diễu hành, nhân dân các làng rầm rộ hưởng ứng nhập vào đoàn quân. Đội ngũ cách mạng bừng bừng khí thế, hùng dũng kéo vào cổng huyện đường. Sau một tràng tiểu liên nổ uy hiếp, đoàn quân cách mạng kéo vào huyện đường và kêu gọi binh lính đầu hàng. Chính quyền bù nhìn hoàn toàn tê liệt không dám chống cự, nộp toàn bộ vũ khí, dấu ấn, sổ sách. Ngay chiều hôm đó, cuộc khởi nghĩa kết thúc thắng lợi trọn vẹn. Trực Ninh trở thành căn cứ địa để Ban Cán sự chỉ đạo, triển khai khởi nghĩa ở các huyện Nam Trực, Nghĩa Hưng, Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu. Ngay đêm ấy, tại một địa điểm ở phố huyện Trực Ninh, Ban Cán sự đã họp bàn về khởi nghĩa. Do chưa nhận được lệnh và nắm được tình hình chung, quân Nhật còn chiếm đóng thành phố Nam Định; các đồn Bảo an Ngòi Cái, Lạc Quần cách không xa nên Ban Cán sự quyết định:
- Gấp rút củng cố Trực Ninh, dùng Trực Ninh làm khu căn cứ.
- Huy động lực lượng cách mạng chiếm các huyện lân cận, triệt đồn Lạc Quần, Ngòi Cái để bảo vệ khu căn cứ.
- Trường hợp xấu nhất thì dùng Trực Ninh làm bàn đạp phát động du kích chiến tranh trong các huyện.
Ban Cán sự đã cử một đồng chí uỷ viên củng cố căn cứ Trực Ninh còn đồng chí Bí thư đưa một lực lượng lên Nam Trực phối hợp với lực lượng quần chúng cách mạng ở đó giành chính quyền huyện, kiểm soát đường 21, ngăn chặn quân Nhật đánh xuống. Đồng thời, đồng chí uỷ viên phụ trách Nghĩa Hưng về địa phương tập hợp lực lượng cách mạng, tiến dọc đường 55 xuống chiếm đồn Bảo An, Ngòi Cái, đồn Bang Tá ven biển rồi vòng về đánh chiếm phủ lỵ Nghĩa Hưng; kiểm soát sông Đào, sông Ninh Cơ, sông Đáy và đường 55. Riêng việc khởi nghĩa ở Hải Hậu, Ban Cán sự giao cho các cán bộ chủ chốt ở đó phụ trách.
Tại huyện Nam Trực: theo kế hoạch phân công của Ban Cán sự, ngay sáng hôm sau 18-8, đồng chí Phạm Ngọc Hồ đưa một lực lượng vũ trang gồm mấy chục người lên phối hợp với lực lượng cách mạng ở huyện Nam Trực đang tập trung ở thôn Tương Nam để chuẩn bị khởi nghĩa. Khi biết chính quyền huyện Trực Ninh đã về tay nhân dân và trước khí thế hùng dũng của đoàn quân khởi nghĩa, tên Huyện trưởng Nam Trực vội ra lệnh cho lính cơ hạ vũ khí đầu hàng vào lúc 10 giờ trưa ngày 18-8.
Tại huyện Vụ Bản: ngày 19-8, đồng chí Trần Đắc (cán bộ tỉnh) được Xứ uỷ cử về lãnh đạo khởi nghĩa ở Vụ Bản. Ngay đêm đó, đồng chí Trần Đắc đã họp với lãnh đạo Việt Minh ở địa phương hoạch định kế hoạch khởi nghĩa.
Theo kế hoạch, mờ sáng ngày 20-8, lực lượng vũ trang chiếm huyện đường. Đồng chí Trần Đắc và đồng chí Ngô Đình Nam chỉ huy 12 thanh niên bí mật áp sát cổng huyện, tước được súng của lính gác. Sau đó, anh em xông vào trại lính lệ, chiếm kho súng, thu 20 súng trường cùng toàn bộ đạn dược. Tất cả bọn lính lệ được dồn vào một phòng, khoá chặt cửa. Huyện trưởng đang đi hộ đê. Anh em chia nhau đi lục soát huyện đường, tịch thu dấu ấn và hồ sơ tài liệu. Lực lượng quần chúng làm áp lực cũng kịp thời kéo đến tiến vào phối hợp cùng anh em chiếm huyện lỵ.
Tại huyện Xuân Trường: Trong khi chờ lệnh khởi nghĩa của Ban Cán sự, các đồng chí đảng viên ở địa phương đã theo dõi sát tình hình. Khi được tin tỉnh Thái Bình và một số huyện lân cận đã khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, lực lượng cách mạng ở Xuân Trường cũng tích cực chuẩn bị mọi mặt để chớp thời cơ khởi nghĩa. Giữa lúc đó, đồng chí Đoàn Trần Phong đem lệnh khởi nghĩa của Ban Cán sự về. Các đồng chí đảng viên và cốt cán ở Xuân Trường đã triệu tập hội nghị gồm đại biểu Đảng bộ và Việt Minh vào tối ngày 19-8-1944 tại Tự Lạc (Thọ Nghiệp) và quyết định phát động khởi nghĩa vào sáng 20-8. Theo kế hoạch, lực lượng khởi nghĩa chia làm hai mũi tiến công địch. Một mũi từ Đông An, Hạc Châu do đồng chí Đinh Thúc Dự chỉ huy. Một mũi do đồng chí Vũ Xuân Lầm và Phạm Cương chỉ huy. Hai mũi sẽ hợp quân tại dốc Xuân Bảng tiến đánh đồn Lạc Quần trước. Sau khi hạ xong đồn Lạc Quần sẽ kéo về đánh chiếm phủ Xuân Trường.
Trước giờ khởi nghĩa, xét thấy việc chiếm đồn Lạc Quần trước chưa phải là thượng sách bởi vì đây là một cứ điểm lớn, nếu phủ Xuân Trường chưa đầu hàng thì chưa chắc binh lính đồn Lạc Quần đã chịu hạ vũ khí, do đó mũi Đông An đã quyết định thay đổi kế hoạch chiếm phủ Xuân Trường trước. Nhờ có quyết định đúng đắn, nhằm được vào khâu yếu của địch, nên lực lượng cách mạng đã đánh bại ý chí kháng cự, trước khi đánh vào trung tâm của địch.
Đoàn quân khoảng 40 người được trang bị một súng lục, một súng trường, còn lại là gậy gộc, giáo mác. Trên đường đi nhân dân tham gia ngày càng đông với khí thế mạnh mẽ tiến vào phủ lỵ Xuân Trường vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu Việt Nam độc lập vạn tuế, ủng hộ Việt Minh, Đả đảo bù nhìn... Khi lực lượng cách mạng vừa tiến đến cửa phủ, hai binh lính là nhân mối của ta đã ra mở cổng để mọi ngưòi tràn vào.
Trước sức ép mạnh mẽ của lực lượng cách mạng, Huyện trưởng Vũ Ngọc Tỉnh vừa đi coi đê về, còn đang bàng hoàng đã phải nộp vũ khí, giấy tờ, sổ sách cho Ban chỉ huy khởi nghĩa. Ngay sau đó, Ban chỉ huy tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng ở phủ, để một bộ phận nhỏ ở lại điều hành công việc, còn đại bộ phận kéo xuống đồn Lạc Quần. Khi cánh quân tới dốc Xuân Bảng thì gặp cánh quân của đồng chí Vũ Xuân Lầm và Phạm Cương vừa tới. Hai cánh quân hợp nhất cùng tiến.
Chùa Tự Lạc, nơi họp bàn kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền ở hai huyện Xuân Trường - Giao Thuỷ, ngày 20-8-1945.
Lạc Quần là một đồn lớn ở Nam Định, án ngữ ba huyện phía nam của tỉnh, có lô cốt cao cùng với 40 lính được trang bị đầy đủ vũ khí do Quản Xuân chỉ huy. Hiểu rõ tầm quan trọng của việc đánh chiếm đồn này, Ban chỉ huy khởi nghĩa đã bố trí con rể đồn trưởng cùng nhân dân Hoành Nha là những người trong họ, trong làng đi đầu để giảm bớt sự căng thẳng. Nhưng khi mọi người kéo đến ngoại vi đồn, viên quản ra lệnh cho binh lính đóng chặt cổng đồn, rút hết lực lượng lên lô cốt, chĩa súng xuống uy hiếp tinh thần quân khởi nghĩa. Ban khởi nghĩa cử người vào thuyết phục binh lính, khuyên họ hạ súng đầu hàng càng sớm càng tốt. Nhưng lấy cớ là chưa có lệnh của thượng cấp, viên quản không chịu giao đồn. Trước tình thế đó, lực lượng cách mạng buộc phải bao vây đồn, bắc loa kêu gọi binh lính đầu hàng. Đến quá trưa, nhiều binh lính hoang mang muốn hạ vũ khí. Tình thế bức bách, viên quản gọi điện về xin ý kiến Tỉnh trưởng, nhận được trả lòi: "Chính quyền trên này đã bàn giao cho Việt Minh, dưới đó cũng bàn giao thôi", lúc ấy viên quản mới chịu đầu hàng, giao đồn cho đoàn quân khởi nghĩa.
Khởi nghĩa ở Xuân Trường thắng lợi trọn vẹn và có ảnh hưởng quyết định đến việc giành chính quyền ở Giao Thuỷ.
Tại huyện Giao Thuỷ: thắng lợi ở Lạc Quần có tác động mạnh mẽ làm tê liệt ý chí kháng cự của lực lượng địch ở huyện lỵ Giao Thuỷ, Hải Hậu. Trên đà thắng lợi, lực lượng cách mạng ở Xuân Trường tiến thẳng xuống đồn đoan Ngô Đồng, huyện lỵ Giao Thuỷ. Trước khí thế mạnh mẽ của lực lượng cách mạng, viên Huyện trưởng thân hành ra cổng đón quân khởi nghĩa vào và nộp toàn bộ vũ khí, dấu ấn, sổ sách.
Tại huyện Hải Hậu: ngày 21-8, đồng chí Nguyễn Thiết Giáp nhận lệnh khởi nghĩa của tỉnh từ Trực Ninh, trở về tiến hành ngay việc tập hợp quần chúng để giành chính quyền huyện. Trong khi đó, đồng chí Đặng Xuân Thiều, Nguyễn Trường Thuý ở chợ Cồn được tin các nơi đã khởi nghĩa, mặc dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của tỉnh vẫn chủ động huy động lực lượng cách mạng và quần chúng nhân dân chiếm đồn đoan Văn Lý, tịch thu toàn bộ tài sản và sổ sách, sau đó tổ chức mít tinh quần chúng ở chợ Cồn. Đồng thời một bộ phận do đồng chí Nguyễn Trường Thuý chỉ huy kéo lên chiếm huyện lỵ. Khoảng 10 giờ, lực lượng cách mạng được trang bị hai khẩu súng và vũ khí thô sơ bất ngờ đột nhập huyện lỵ. Tinh thần nha lại, binh lính hoang mang, suy sụp cực độ không dám chống cự. Ta tịch thu toàn bộ vũ khí. Lúc đó, Huyện trưởng Hải Hậu đi vắng, trợ tá của y bỏ nhiệm sở. Tên cai đội phải sai lính đi tìm. Thấy lực lượng cách mạng đã làm chủ tình thế, hắn hốt hoảng nộp ấn tín đầu hàng. Khi lực lượng do đồng chí Nguyễn Thiết Giáp chỉ huy kéo đến huyện lỵ thì mọi việc đã xong. Hai bộ phận thống nhất thành lập chính quyền cách mạng huyện Hải Hậu.
Tại Nghĩa Hưng, tuy chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của tỉnh nhưng được tin Hà Nội đã giành được chính quyền, đêm 19-8-1945, các đồng chí Việt Hùng, Nguyễn Trọng Hợp, Vũ Quốc Khanh đã họp liên tịch và quyết định thành lập uỷ ban khởi nghĩa do đồng chí Việt Hùng làm Chủ tịch. Kế hoạch khởi nghĩa được hoạch định cụ thể, Hội nghị quyết định tiến hành vào ngày 20-8-1945.
Thực hiện kế hoạch đó, sáng 20-8, uỷ ban khởi nghĩa phát lệnh giành chính quyền trong toàn phủ. Theo phương án đã định, lực lượng cách mạng tiến đánh đồn Ngòi Cái (Quần Liêu - Nghĩa Sơn). Quần chúng Nghĩa Sơn tham gia rất đông. Đội Tuyên truyền vũ trang bắc loa sát vào đồn thông báo tin khởi nghĩa đã thắng lợi ở Hà Nội và khắp nơi, kêu gọi binh lính đầu hàng. Sau mỗi đợt kêu gọi quần chúng lại hô vang các khẩu hiệu ủng hộ Việt Minh, đả đảo đế quốc, bù nhìn tay sai làm áp lực. Cùng lúc, một lực lượng cách mạng bí mật áp sát kho súng, bắn chỉ thiên uy hiếp. Trước khí thế và áp lực đó, địch đã phải đầu hàng vô điều kiện, nộp 18 súng trường, 1 súng lục và toàn bộ vũ khí đạn dược. Chiếm xong đồn Ngòi Cái, lực lượng cách mạng triển khai theo đường 55 kéo thẳng xuống Giáo Lạc (Nghĩa Tân) bức tên bang tá đầu hàng, thu toàn bộ tài liệu ấn tín. Thừa thắng, lực lượng cách mạng kéo về Quỹ Nhất (Nghĩa Hoà) tước 5 súng trường, 4 súng bắn chim, 1 canô của lính canh đê. Theo triền đê sông Đáy, lực lượng cách mạng hạ tiếp các đồn Âm Sa, Đài Môn (Nghĩa Phú) rồi trở về hội tụ ở Quần Liêu để kéo lên chiếm phủ lỵ.
Chiều 21-8, lực lượng cách mạng xuất phát từ Quần Liêu vượt đò Đống Cao sang phối hợp với lực lượng ở miền trung Nghĩa Hưng do đồng chí Nguyễn Trọng Hợp lãnh đạo, giành chính quyền phủ. Sang đến nơi thì lực lượng ở đây đã phối hợp với lực lượng cách mạng ở Lương Kiệt, Hào Kiệt do đồng chí Nguyễn Cơ Thạch và đồng chí Song Hào lãnh đạo, kéo vào giành chính quyền ở phủ lỵ. Lúc này huyện trưởng đang đi đốc thúc đắp đê, ta bắt lính mở cổng kéo thẳng vào phủ đường. Trước áp lực mạnh mẽ của quần chúng cách mạng, bọn quan lại nem nép đầu hàng, nộp 18 súng trường, 1 súng lục và nhiều tài liệu sổ sách. Sau khi chiếm được phủ đường, một bộ phận được cử lên đê bắt huyện trưởng giải về. Trước tình thế không thể nào đảo ngược, hắn đã xin đầu hàng, nộp toàn bộ sổ sách, dấu ấn cho lực lượng khởi nghĩa. Ngay sau đó, chính quyền cách mạng lâm thời tuyên bố thành lập trong tiếng reo hò của hàng ngàn quần chúng cách mạng.
Tại huyện Ý Yên: Từ ngày 19-8, tin tức giành chính quyền ở huyện Gia Viễn (Ninh Bình) và từ khắp nơi dội về đã làm cho không khí ở đây hết sức sôi động. Các cơ sở cách mạng ở An Hoà, Lỗ Xá đã cử người sang Ninh Bình mượn súng. Ở Thượng Đồng (Yên Tiến), các đồng chí Lã Xuân Choát, Phạm Duy Mạc đã gấp rút vận động nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa.
Trong khi đó tại Nhuộng và Ngòi, được sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ Hà Nam, trưa ngày 20-8, lực lượng cách mạng đã phối hợp với lực lượng cách mạng của huyện Thanh Liêm tràn xuống giành chính quyền huyện. Đội quân khởi nghĩa được trang bị súng ống, dao kiếm, gậy gộc hùng dũng kéo thẳng vào cổng huyện. Huyện trưởng đi hộ đê. Ta kêu gọi binh lính, quan lại đầu hàng. Trước khí thế áp đảo của quần chúng, địch không dám chống cự, vội mở cổng huyện đường. Lực lượng khởi nghĩa tuyên bố chiếm huyện, thu 10 súng trường, 1 súng ngắn, 16 ngàn đồng tiền Đông Dương, tịch thu triện và toàn bộ giấy tờ, sổ sách.
Sáng 22-8-1945, lực lượng cách mạng ở Thượng Đồng, Đồng Biểu, Hoàng Nê, Hoàng Nghị, Tống Xá, An Cừ, An Hoà kéo về huyện lỵ giành chính quyền nhưng khi đến nơi thì chính quyền huyện đã thuộc về tay lực lượng cách mạng từ hai hôm trước. Trưa ngày 22-8, các lực lượng cách mạng đã thống nhất cử ra uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện. Buổi chiều, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở ngay sân huyện đường, tuyên bố xoá bỏ chính quyền thực dân phong kiến và thành lập chính quyền cách mạng.
Từ ngày 18-8, Đội Danh dự của Xứ uỷ nhận lệnh về các tỉnh phía nam để tuyên truyền chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Đội đi qua Phủ Lý, Ninh Bình và tới Nam Định. Đi đến đâu, đội cũng phát tờ Tin mới đăng bài tường thuật cuộc mít tinh ở Hà Nội chiều ngày 17-8, thông báo Nhật đầu hàng Đồng minh và kêu gọi nhân dân hãy ủng hộ Việt Minh, sẵn sàng khởi nghĩa giành chính quyền. Chiều tối ngày 18-8, tại chợ Rồng, Đội Danh dự đã phát báo, dùng loa phóng thanh tuyên truyền khởi nghĩa và hát bài Tiến quân ca. Hàng ngàn người kéo tới dự tạo thành cuộc mít tinh lớn. Tiếng hát, tiếng hô khẩu hiệu Đả đảo chính phủ bù nhìn, Việt Nam hoàn toàn độc lập hừng hực khí thế, thôi thúc nhân dân hành động. Nhưng tới giờ phút này, phần lớn đảng viên và quần chúng cách mạng còn bị giam giữ trong nhà tù phát xít. Nhiều đảng viên còn lại rải rác ở khắp nơi đã liên lạc với nhau, bàn bạc thống nhất để đi đến quyết định phải giải phóng tù chính trị và coi đó là nhiệm vụ bức thiết và khẩu hiệu hành động lúc này. Các đồng chí đảng viên, trong đó có một số đảng viên Đảng Dân chủ cùng với quần chúng cơ sở cách mạng toả đi vận động thân nhân chính trị phạm đấu tranh đòi thả chồng, con, em mình. Sáng 19-8, hàng trăm thân nhân chính trị phạm được huy động tập trung thành đoàn biểu tình, dẫn đầu là đồng chí Trần Văn Thọ mang cờ đở sao vàng, tiến về dinh tỉnh trưởng đòi thả ngưòi thân của mình. Trong nhà tù, các chính trị phạm cũng trực tiếp yêu sách đòi tỉnh trưởng phải trả tự do.
Trước cuộc đấu tranh có sự kết hợp chặt chẽ đó, chính quyền bù nhìn buộc phải xin với Nhật trả tự do cho những người bị Pháp bắt trước ngày Nhật đảo chính, số còn lại bị Nhật đưa sang giam giữ ở sở hiến binh.
Thắng lợi bước đầu cổ vũ mạnh mẽ quần chúng cách mạng. Cuộc đấu tranh được mở rộng, chĩa thẳng mũi nhọn vào phát xít Nhật. Chiều ngày 19-8, hàng ngàn quần chúng công nhân, nông dân, tiểu thương, học sinh biểu tình tuần hành dưới cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ ủng hộ Việt Minh, Giải phóng chính trị phạm kéo đến sở hiến binh Nhật. Trước khí thế mãnh liệt của quần chúng, Nhật đã phải thả hầu hết các chính trị phạm bị giam ở đó. Thắng lợi của cuộc đấu tranh đòi thả tù chính trị đã tăng lực lượng cho cách mạng, làm hoang mang tinh thần hàng ngũ địch và làm tê liệt ý chí chống đối của chúng.
Ngay đêm 19-8, các đảng viên mới ra tù đã cấp tốc họp tại hiệu Uyên Thái - cơ sở cách mạng của Việt Minh, phân công nhau cùng với một số anh em Đảng Dân chủ cùng cốt cán đi huy động quần chúng may cờ và biểu ngữ để khởi nghĩa. Lúc này lực lượng tiểu đoàn bảo an binh gồm 500 lính ở Nam Định đã bị phân hoá. Nhiều người đã ngả về phía cách mạng.
Ngày 20-8-1945, giữa lúc các cán bộ, đảng viên đang xúc tiến gấp mọi mặt để khởi nghĩa thì đồng chí Hà Kế Tấn (Xứ uỷ viên phụ trách Nam Định) về đến thành phố. Đồng chí đã họp với các đảng viên và các lực lượng cốt cán tại hiệu Uyên Thái để chỉ đạo và thống nhất kế hoạch khởi nghĩa. Ngay đêm đó, uỷ ban khởi nghĩa được thành lập gồm các đồng chí Hà Kế Tấn, Trần Văn Mạc, Vũ Đức Oong, Nguyễn Danh Địch, Đỗ Nguyên Tân, Đặng Châu Tuệ..., do đồng chí Hà Kế Tấn làm Chủ tịch.
Cùng ngày 20-8, Đội Tuyên truyền vũ trang của Bắc Bộ phủ gồm các đồng chí ở Đội Danh dự và một số đồng chí ở Hội văn hoá Cứu quốc, Đảng Dân chủ ở Hà Nội được đồng chí Nguyễn Khang (Thường vụ Xứ uỷ) giao nhiệm vụ về Nam Định phối hợp với địa phương khởi nghĩa, về tới Nam Định, thấy không khí khởi nghĩa đã sôi sục, các đồng chí vào thẳng dinh tỉnh trưởng thuyết phục Tỉnh trưởng Nguyễn Huy Xương đầu hàng; đồng thời yêu cầu nhà in Trương Phát phải cho in gấp 3 vạn tờ truyền đơn kêu gọi nhân dân đi mít tinh vào chiều 21-8.
Để trung lập Nhật, uỷ ban khởi nghĩa đã cử đại diện đến trao đổi, thoả thuận với Nhật những vấn đề quan trọng. Đại diện của Bộ Tư lệnh Nhật hứa không can thiệp vào công việc của ta; để cho ta bắt những tên tay sai còn lẩn trốn trong doanh trại Nhật; bí mật chuyển cho ta một số vũ khí mà chúng phải bàn giao cho quân Đồng minh, về phía ta sẽ đảm bảo tính mạng và tài sản của Nhật, tạo điều kiện cho công dân Nhật muốn ở lại Việt Nam sinh sống theo nguyện vọng của họ.
Nắm chắc tình hình mọi mặt, uỷ ban khởi nghĩa quyết định gấp rút huy động quần chúng nội, ngoại thành tổ chức một cuộc mít tinh biểu dương lực lượng thật lớn vào chiều ngày 21-8 tại dốc Lò Trâu.
Trong đêm 20 và sáng ngày 21-8, truyền đơn kêu gọi nhân dân mít tinh được rải khắp thành phố và các vùng lân cận. Chiều hôm đó, cả thành phố là một rừng cờ đỏ sao vàng. Quần chúng nội, ngoại thành và các huyện lân cận, trong đó có đông đảo nhân dân xã Mỹ Xá (Mỹ Lộc), Đại An (Vụ Bản) gồm đủ các giai cấp, các tầng lớp rầm rộ đổ về dốc Lò Trâu tập trung trước lễ đài uy nghi. Đến 3 giờ chiều, cuộc mít tinh khai mạc. Nhạc bài Tiến quân ca vang lên. Cờ đỏ sao vàng tung bay. Gần ba vạn quần chúng hân hoan hưởng những giờ phút độc lập đầu tiên trong đời, lắng nghe lời hiệu triệu của Việt Minh kêu gọi nhân dân nổi dậy giành chính quyền và thực hiện 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh, uỷ ban khởi nghĩa tuyên bố xoá bỏ chính quyền bù nhìn, thiết lập chính quyền cách mạng. Tỉnh trưởng Nguyễn Huy Xương được triệu đến chứng kiến phút sụp đổ của chính quyền phong kiến thực dân. Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nam Định được thành lập, gồm bảy người do đồng chí Đặng Châu Tuệ làm Chủ tịch, uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Nam Định do đồng chí Nguyễn Văn Hoan làm Chủ tịch ra mắt nhân dân. Kết thúc cuộc mít tinh là tiếng hô khẩu hiệu của mọi người vang động khắp thành phố.
Ngay sau đó, lực lượng cách mạng phân công nhau khẩn trương kéo đi chiếm dinh tỉnh trưởng, trại bảo an binh, sở liêm phóng cùng các công sở khác. Chỉ còn Ngân hàng là nơi Nhật ngoan cố chiếm giữ với lý do phải bàn giao cho Đồng minh. Việc không chiếm được Ngân hàng đã gây nhiều khó khăn về vấn đề tài chính cho chính quyền mới sau này.
Tại huyện Mỹ Lộc: sau khi giành xong chính quyền tỉnh, uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời giao cho đồng chí Trần Xuân San (Trần Chí Đức) và Trần Huy Thư tổ chức quần chúng giành chính quyền ở huyện Mỹ Lộc. Sáng ngày 22-8-1945, sau khi xem xét, nắm chắc tình hình Huyện trưởng Vũ Tuấn Sáu đang đi đốc thúc hộ đê, chỉ còn lại một số viên nha lại, lục sự và bọn lính lệ canh gác, các đồng chí quyết định giành chính quyền huyện Mỹ Lộc ngay trong ngày hôm đó. Vào lúc 2 giờ chiều 22-8, đồng chí Trần Xuân San, Trần Huy Thư chỉ huy tổ chiến đấu của thành phố cùng một tiểu đội bảo an binh và đông đảo quần chúng nội thành, các xã lân cận giương cao cờ, biểu ngữ rầm rập tiến về cổng huyện đường. Lực lượng khởi nghĩa đã bắt giữ lính gác, ào vào chiếm kho súng và khống chế các quan lại có mặt ở huyện và tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ, thành lập chính quyền cách mạng. Bố trí canh gác huyện đường xong, ta ra lệnh cho một tên lục sự và lính lệ ra đê báo tin chính quyền đã về tay cách mạng và lệnh cho huyện trưởng về ngay nộp đồng triện, giấy tờ, sổ sách, tài sản cho chính quyền cách mạng. Khởi nghĩa ở Mỹ Lộc - huyện cuối cùng trong toàn tỉnh đã kết thúc nhanh chóng và hoàn toàn thắng lợi.
*
* *
Cách mạng Tháng Tám ở Nam Định diễn ra nhanh gọn. Chỉ trong vòng sáu ngày (từ ngày 17-8 đến ngày 22-8), toàn bộ chính quyền địch từ tỉnh đến huyện, đã sụp đổ hoàn toàn.
Ngày 19/8/1945, nhân dân giành chính quyền tại Bắc Bộ phủ (Hà Nội).
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra cho toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân Nam Định nói riêng một bước ngoặt vĩ đại nhất trong lịch sử, một cuộc đổi đời chưa từng có đối với mỗi người dân.
Đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta", cuộc đấu tranh giành chính quyền của nhân dân Nam Định diễn ra trong suốt 15 năm, từ khi Đảng bộ ra đời và lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân khác trong tỉnh đến Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945. Đó là cuộc đấu tranh đầy thử thách qua ba cao trào cách mạng 1930-1931, 1936- 1939 và 1939-1945. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở Nam Định là kết quả sự vận dụng đúng đắn các chủ trương, đường lối của Đảng để giải quyết những yêu cầu cấp thiết mà phong trào cách mạng đặt ra, là sự phát huy vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng, vai trò tiền phong gương mẫu của các đảng viên và tinh thần hy sinh vô bờ vì cách mạng của nhân dân toàn tỉnh.
Là một trong những địa phương có tổ chức Đảng ra đời sớm, phong trào đấu tranh của công nhân phát triển mạnh mẽ, thành phố Nam Định sớm trở thành một trong những trung tâm đấu tranh chính trị thu hút các lực lượng cách mạng trong tỉnh trước hết là giai cấp công nhân, nông dân, các tầng lớp trí thức, tiểu tư sản, học sinh, binh lính vào trận tuyến đấu tranh chống đế quốc, phát xít và phong kiến tay sai. Chính vì vậy mà phong trào cách mạng Nam Định bị kẻ thù điên cuồng tấn công đàn áp. Suốt 15 năm gian nan, bền bỉ chiến đấu, phong trào cách mạng Nam Định đã trải qua bao bước thăng trầm, các cơ sở Đảng nhiều lần bị triệt phá. Biết bao cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng bị tù đày, hy sinh trước đòn roi, máy chém của thực dân Pháp, phát xít Nhật. Song sự khủng bố dữ dội của kẻ thù không thể khuất phục được ý chí cách mạng kiên cường của Đảng bộ và nhân dân Nam Định. Phong trào quần chúng sau mỗi phen tạm thời lắng xuống lại bùng lên mạnh mẽ hơn trước.
Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã chứng tỏ tinh thần chủ động tiến công địch. Mặc dù chưa liên lạc được với Trung ương, chưa nhận được lệnh khởi nghĩa nhưng Ban Cán sự tỉnh, những cán bộ, đảng viên đã nhanh nhạy chớp thời cơ, kiên quyết phát động nhân dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Chính nhờ huy động được sức mạnh chính trị của toàn thể nhân dân thành một đội quân hùng hậu mà lực lượng vũ trang của tỉnh tuy còn rất nhỏ bé nhưng đã hỗ trợ lực lượng chính trị tạo thành cơn bão táp cách mạng lật đổ ách thống trị gần một trăm năm của thực dân, đế quốc, chôn vùi chế độ phong kiến hàng ngàn năm, lập nên chính quyền dân chủ nhân dân. Cách mạng Tháng Tám ở Nam Định cũng như cuộc nổi dậy của cả dân tộc đã làm cho ý nghĩa và tầm vóc của cuộc cách mạng trở nên hết sức vĩ đại và trở thành bất tử đối với lịch sử đấu tranh của các dân tộc vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Đó chính là những trang sử chói lọi được ghi trong pho lịch sử bằng vàng của Đảng ta.