Chương IV: Đảng bộ Nam Định lãnh đạo đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)

CHƯƠNG IV
ĐẢNG BỘ NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(1945-1954)

I. ĐẤU TRANH GIỮ VỮNG VÀ CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG (9/1945-12/1946)

    Hơn 80 năm đất nước đắm chìm trong chế độ đô hộ của thực dân Pháp, nước mất, nhà tan, nhân dân phải chịu bao cơ cực, tủi nhục, sống kiếp nô lệ, Cách mạng Tháng Tám 1945 với sự vùng lên muôn người như một của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước đến đài độc lập, dân tộc tự do, nhân dân lao động từ người nô lệ thành người làm chủ Tổ quốc mình. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là mốc son chói lọi, đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên mới.

    Nhưng nhiều khó khăn đã ập tới. Thù trong giặc ngoài đe doạ. Tình hình đất nước ở vào thế ngàn cân treo sợi tóc.

    Mùa lũ năm 1945, nước sông Hồng lên to, nhiều đoạn đê vỡ gây lụt lớn cho chín tỉnh miền Bắc, cuốn đi mùa màng và tài sản của hàng triệu con người. Tiếp đó lại đến hạn hán, 50% ruộng đất không cày cấy được. Đời sống của nhân dân ta vốn đã lao đao bởi nạn đói Ầt Dậu thì nay nguy cơ nạn đói có khả năng lại tái diễn. Nền kinh tế của đất nước kiệt quệ, sản xuất công nghiệp đình đốn, hàng vạn công nhân không có việc làm. Ngoại thương bế tắc, hàng hoá khan hiếm, giá cả trôi nổi không kiểm soát được. Nền tài chính càng khó khăn hơn vì Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản Pháp, còn khả năng khống chế mọi hoạt động của Ngân khố nước ta...

    Giữa lúc đó, các thế lực đế quốc núp dưới danh nghĩa quân Đồng minh để tước vũ khí quân đội Nhật, cùng tràn vào từ hai đầu đất nước. Ở miền Bắc, từ vĩ tuyến 16 trở ra là 20 vạn quân đội Tưởng kéo theo bọn Việt Quốc, Việt Cách - tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài. Âm mưu của chúng vào Việt Nam được bộc lộ rõ là "phá Minh, diệt Cộng, cầm Hồ" (phá tan Việt Minh, tiêu diệt Đảng Cộng sản và bắt giam Hồ Chí Minh), ở miền Nam có quân đội Anh và sau lưng chúng là quân đội xâm lược Pháp với xe tăng, đại bác, súng ống đầy đủ. Âm mưu tái chiếm Việt Nam của thực dân Pháp được thể hiện rõ trong bản tuyên bố ngày 23-8-1945 của Đò Gôn: "Đông Dương vẫn là thuộc địa của Pháp, Liên bang Đông Dương sẽ có một chính phủ do một viên Cao uỷ Pháp cầm đầu và gần như một số Bộ trưởng người Pháp và người bản xứ...". Chỉ vài ngày sau khi quân Đồng minh kéo vào, ngày 23-9-1945 thực dân Pháp trắng trợn nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu âm mưu xâm lược nước ta lần thứ hai. Chưa bao giờ Việt Nam lại có nhiều kẻ thù như vậy.

    Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vừa ra đời, việc quản lý và xây dựng đất nước hoàn toàn mới mẻ. Lực lượng vũ trang cách mạng tuy có lòng nhiệt tình yêu nước và ý chí căm thù giặc sâu sắc nhưng vũ khí và kinh nghiệm chiến đấu còn thiếu. Nước ta chưa được một nước nào trên thế giới công nhận. Vận mệnh dân tộc đặt lên vai mỗi người dân Việt Nam lúc này là độc lập hay nô lệ? Chính quyền nhân dân tồn tại hay bị thủ tiêu?

    Nằm trong hoàn cảnh chung của cả nước, sau khi chính quyền cách mạng được thành lập, Đảng bộ và nhân dân Nam Định cũng phải đối phó với nhiều khó khăn phức tạp.

    Về kinh tế, mọi ngành sản xuất đều sút kém, đình đốn. Sản xuất nông nghiệp suy giảm, độc canh cây lúa, ruộng đất hoang hoá quá nhiều. Nạn đói tháng 3-1945 đã cướp đi 20 vạn đồng bào trong tỉnh. Những người sống sót sức khoẻ giảm sút, bệnh tật nhiều, thiếu lương ăn, thiếu ruộng đất hoặc không có ruộng cày cấy do bị địa chủ tước đoạt hoặc phải cầm cố. Ngành công nghiệp, thủ công nghiệp gần như đình trệ. Một số xí nghiệp của tư bản như Nhà máy chai, Nhà máy chiếu, Nhà máy rượu không hoạt động. Nhà máy sợi - một xí nghiệp liên hiệp sợi - vải lớn nhất Đông Dương (số công nhân có thời kỳ tập trung tới 13.000 người), do thiếu nguyên liệu và bị tàn phá, lúc này chỉ còn 2.000 công nhân sản xuất cầm chừng. Hàng ngàn khung cửi dệt tay, trước đây nhân dân thường mua sợi của Nhà máy sợi để dệt nay cũng ngừng hẳn. Hàng vạn công nhân, thợ thủ công và dân nghèo thành thị không có việc làm, đời sống rất cơ cực, bấp bênh. Hàng hoá khan hiếm, nạn đầu cơ tích trữ phát triển.

    Về tài chính, ngân quỹ, kho bạc nói chung không còn gì. Cả nước cũng chỉ có 2 triệu đồng tiền Đông Dương mà chủ yếu là loại 500 đồng đã cũ, nát. Ngày 23-9-1945, chủ Ngân hàng Đông Dương giở mặt không chịu xuất tiền cho ngân khố của ta, trắng trợn vi phạm giao kèo đã ký. Ngày 17-11-1945, chúng lại tuyên bố huỷ bỏ loại giấy bạc 500 đồng, định vỗ nợ, cướp không công sức của nhân dân ta, hòng làm rối loạn nền tài chính mới phôi thai của ta.

    Sau Cách mạng Tháng Tám vẫn còn một bộ phận lính Nhật ở thành phố Nam Định chờ ngày giải giáp. Cuối tháng 9-1945 hai trung đoàn và một sư đoàn bộ của quân Tưởng Giới Thạch kéo vào đóng ở thành phố Nam Định, bám gót chúng là bọn Việt Quốc, đóng trụ sở ở số nhà 41 phố Lê Quý Đôn (gần trại Carô). Lợi dụng danh nghĩa quân Đồng minh đến tước vũ khí quân Nhật, chúng sách nhiễu ta đủ điều, vơ vét hàng hoá, lương thực, thực phẩm bằng loại tiền Quan kim, Quốc tệ đã mất giá trị; che chở, giúp đỡ bọn Việt Quốc gây rối khiêu khích, vu cáo chính quyền cách mạng. Trắng trợn hơn chúng còn cho quân lính ra đường phố gây rối trật tự trị an, cướp đoạt tài sản của nhân dân. Những phần tử cơ hội, phản cách mạng, nhất là bọn phản động lợi dụng đạo Thiên Chúa cũng ra sức tuyên truyền gây khó khăn cho ta trong việc phát triển các đoàn thể cứu quốc cũng như xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng.

    Mặt khác, Đảng bộ còn ít kinh nghiệm chỉ đạo công tác chính quyền; các tổ chức quần chúng nói chung mới được xây dựng, lực lượng vũ trang của địa phương đang hình thành, trang bị còn nghèo nàn. Tổ chức Đảng ở cơ sở, nhất là ở xã còn ít và chưa thật đáp ứng kịp thời với những đòi hỏi cấp bách của phong trào cách mạng trong giai đoạn mới.

    Bên cạnh những khó khăn to lớn đó, Đảng bộ và nhân dân Nam Định cũng có nhiều thuận lợi cơ bản.

    Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Dân chủ Cộng hoà ra đời, đem lại cho Việt Nam thế và lực mạnh gấp bội phần. Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh có đường lối cách mạng đúng đắn, biết quy tụ và phát huy sức mạnh đoàn kết nhân dân, kiên quyết đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xây dựng một xã hội ấm no, hạnh phúc. Nhân dân ta luôn biểu thị tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững lời thề của Tuyên ngôn độc lập: "Quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập".

    Chính quyền nhân dân tuy còn non trẻ nhưng đã được xây dựng thành hệ thống từ Trung ương đến các tỉnh, huyện, xã, lại có Mặt trận dân tộc thống nhất xây dựng trên cơ sở liên minh công nông, đoàn kết rộng rãi các lực lượng yêu nước làm hậu thuẫn. Lực lượng vũ trang cách mạng từ nhân dân mà ra, được nhân dân hết lòng che chở giúp đỡ, có thanh thế lớn, có lòng yêu nước và chí căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm lược.

    Qua chiến tranh, tiềm lực của kẻ thù có phần bị suy giảm và cũng nảy sinh những mâu thuẫn gay gắt về quyền lợi trong hàng ngũ của chúng. Tuy quân đội Tưởng Giới Thạch và một vài đảng phái phản động có gây cho ta một số khó khăn, nhưng hoạt động của chúng chủ yếu vẫn ở phạm vi thành phố, thị xã. Chính quyền ta vẫn ngày một vững mạnh ở toàn bộ vùng nông thôn rộng lớn, có điều kiện tập trung giải quyết những vấn đề hệ trọng về xã hội và đời sống nhân dân. Uy thế chính trị và tinh thần to lớn cùng với những điều kiện thuận lợi khách quan tạo nên sức mạnh bảo đảm cho chính quyền nhân dân đứng vững trong vòng vây của bọn đế quốc.

Lớp học Bình dân học vụ.
Lớp học Bình dân học vụ.

    Nam Định là một trong những địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng, là thành phố lớn sau Hà Nội, Hải Phòng với đội ngũ công nhân tập trung, lại được Trung ương Đảng, Xứ uỷ thường xuyên quan tâm theo dõi, chỉ đạo. Đảng bộ Nam Định ra đời sớm, được rèn luyện thử thách qua nhiều cuộc vận động đấu tranh. Nhân dân có truyền thống yêu nước và cách mạng. Đây là những thuận lợi cơ bản, đồng thời là nguồn sức mạnh vô địch tạo điều kiện cho Đảng bộ và nhân dân vươn lên giành nhiều thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng ở địa phương.

    Đứng trước những nguy cơ, thách thức to lớn, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt và mưu trí lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi trở ngại, từng bước đưa cách mạng tiến lên.

    Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 3-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách

    Cần phải làm ngay nhằm phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói, mở một phong trào chống nạn mù chữ; tổ chức cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân; cần, kiệm, liêm, chính và bài trừ những thói hư tật xấu do chế độ thực dân để lại; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò, tuyệt đối cấm hút thuốc phiện; tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết.

    Sau đó, trong bức thư gửi nông dân, Hồ Chủ tịch lại chỉ rõ: "Hiện nay chúng ta có hai việc vụ quan trọng nhất: cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam".

    Trên cơ sở phương hướng đó, ngày 25-11-1945 Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, khẳng định: "Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước ta chưa được hoàn toàn độc lập". Khẩu hiệu vẫn là "Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết". Đảng ta còn chỉ rõ: "Kẻ thù chính của chúng ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược. Phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng".

    Để tập trung lực lượng nhằm quật ngã kẻ thù nguy hiểm nhất, đưa cách mạng đến thắng lợi, Đảng ta chủ trương lập Mặt trận dân tộc thống nhất, mở rộng Việt Minh bao gồm mọi tầng lớp nhân dân, chú trọng kéo địa chủ phong kiến và đồng bào công giáo để chống thực dân Pháp xâm lược.

Nhân dân đi bỏ phiếu bầu Quốc hội khóa I năm 1946.
Nhân dân đi bỏ phiếu bầu Quốc hội khóa I năm 1946.

    Nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân lúc này là: "Củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân". Muốn làm tròn các nhiệm vụ trên, Trung ương Đảng yêu cầu các cấp bộ Đảng: phải tích cực phát triển Đảng, mở rộng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về các mặt chính quyền, mặt trận, quân sự...

    Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng bộ Nam Định đã đề ra một số nhiệm vụ trước mắt lúc này là:

    Xây dựng, củng cố và kiện toàn chính quyền các cấp; xây dựng và mở rộng Mặt trận Việt Minh, thu hút mọi tầng lớp nhân dân vào Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược.

    Khẩn trương giải quyết nạn đói, tích cực chống giặc dốt; ra sức cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; vận động quần chúng hăng hái thực hiện đời sống mới.

    Trấn áp kịp thời bọn phản cách mạng, bọn đảng phái phản động và những phần tử làm tay sai cho đế quốc phá hoại cách mạng, giữ gìn trật tự an ninh.

    Đối với quân đội Tưởng Giới Thạch, đưa ra khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện" để thực hiện sách lược hoà hoãn, giáo dục quần chúng đề cao cảnh giác, phá âm mưu đen tối của chúng; sử dụng áp lực của quần chúng kết hợp với chức năng của chính quyền cách mạng, nhằm ngăn chặn kịp thời những hành động vi phạm chủ quyền dân tộc.

    Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng, mở rộng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực công tác.

    Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Còn chính quyền là còn tất cả. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh là dồn toàn lực vào việc xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân trước sự tấn công điên cuồng của những kẻ thù có tiềm lực quân sự lớn mạnh, tàn ác và nguy hiểm.

    Ngay sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời các cấp đã tuyên bố xoá bỏ toàn bộ hệ thống chính quyền và tổ chức chính trị của chế độ thực dân, phong kiến từ tỉnh đến xã. Đồng thời lực lượng vũ trang cách mạng đã giải tán sở mật thám, sở cảnh sát; truy bức những tên mật thám, tay sai cho Nhật, Pháp có nhiều nợ máu với nhân dân. Ty liêm phóng và lực lượng trật tự được thành lập làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Bộ máy cường hào ở nông thôn nhanh chóng bị xoá bỏ, tất cả các con dấu, giấy tờ, sổ sách của các tổ chức đó bị tịch thu. Đảng bộ đã tổ chức một cuộc tuần hành thị uy của lực lượng vũ trang và nửa vũ trang toàn tỉnh ở thành phố để biểu dương lực lượng, cổ vũ tinh thần cách mạng của quần chúng. Lực lượng liêm phóng phối hợp với lực lượng trật tự phát hiện và triệt phá trụ sở bí mật của bọn Việt Nam Quốc dân Đảng ở phố Trần Hưng Đạo - thành phố Nam Định, thu nhiều tài liệu phản động. Chính quyền cách mạng thực hiện quốc hữu hoá một số cơ sở kinh tế nhằm phục vụ lợi ích công cộng của nhân dân như Nhà máy đèn, Nhà máy nước, Bưu điện, Kho bạc, Thuỷ nông, Công chính. Trong khi kiên quyết đập tan bộ máy đàn áp, kìm kẹp của đế quốc và phong kiến, chính quyền cách mạng vẫn sử dụng nhũng nhân viên thuộc chính quyền cũ. Đảng bộ Nam Định đã hai lần mở rộng thành phần uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời, rút một số uỷ viên của Mặt trận Việt Minh trong chính quyền các cấp và mời thêm một số trí thức, nhân sĩ tiến bộ tham gia trên nguyên tắc Đảng vẫn giữ nguyên quyền lãnh đạo, uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời các cấp đổi thành uỷ ban hành chính.

    Chấp hành sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các chỉ thị, hướng dẫn của Trung ương, Đảng bộ Nam Định tiến hành đợt tuyên truyền vận động nhân dân tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp rất sôi nổi. Từ cuối năm 1945, phong trào thi đua lập thành tích chào mừng ngày hội lớn của dân tộc được phát động rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Khí thế cách mạng bừng lên trong các nhà máy, trên đồng ruộng. Càng gần đến ngày bầu cử, các hoạt động cổ động tuyên truyền càng nhộn nhịp. Khắp các ngả đưòng, nơi công cộng, đình chùa lớn, các địa điểm dự định đặt hòm phiếu đều treo cờ, căng khẩu hiệu nổi bật các dòng chữ Việt Nam độc lập muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Tất cả cử tri hãy đến nơi bỏ phiếu!

    Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, phụ lão ở khắp các địa phương trong tỉnh đã tổ chức cho cử tri tìm hiểu về trách nhiệm, quyền hạn của cử tri, giới thiệu tiểu sử các ứng cử viên, nhất là những người yêu nước do Mặt trận giới thiệu. Một số nơi có sáng kiến xếp các tên ứng cử viên theo vần để bà con dễ đọc, dễ nhớ:

''Khiêm, Thiều, Trọng, Tuệ, Tín, Anh
Sắc, Đoan, Đức, Trác, Mẫn, Thành, Trứ, Trân
Những người yêu nước thương dân
Thêm: Âu, xin cũng một phần chớ quên" .

    Tất cả các xã trong tỉnh đều tổ chức mít tinh, phát thanh lưu động bằng loa, tuyên truyền mục đích, ý nghĩa, hô hào quần chúng nhân dân hăng hái đi bỏ phiếu; dựng cổng chào, niêm yết danh sách cử tri và ứng cử viên.

    Theo quy định, tỉnh Nam Định tổ chức thành hai đơn vị bầu cử: đơn vị các huyện bầu 15 đại biểu, đơn vị thành phố Nam Định bầu hai đại biểu.

    Đi ngược lại nguyện vọng của quần chúng, bọn địa chủ cường hào, các đảng phái phản động, nhất là bọn phản động đội lốt Thiên Chúa giáo ở các địa phương đã tìm mọi cách phá bầu cử, nhất là bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã. Chúng gièm pha những đại biểu do Mặt trận Việt Minh giới thiệu và đưa người của chúng ra tranh cử. Ở thành phố chúng cổ động, hô hào cử tri bỏ phiếu cho chúng. Có nơi chúng còn đưa người vào ban bầu cử và có những hành động gian lận phiếu bầu để người của chúng đắc cử.

Ngày 5-1-1946, hàng nghìn người Hà Nội đón mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa I.
Ngày 5-1-1946, hàng nghìn người Hà Nội đón mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa I.

    Do hành động phá hoại kể trên, ở một số nơi phong trào yếu, công việc bầu cử cũng gặp một số khó khăn. Song, do công tác chuẩn bị của Đảng bộ chu đáo, lại được đông đảo quần chúng hết lòng ủng hộ nên cuộc bầu cử vẫn diễn ra sôi nổi và thắng lợi.

    Trong ngày bầu cử Quốc hội, gần 100% số cử tri đã đi bỏ phiếu và trong số 36 vạn cử tri đi bầu thì 33 vạn cử tri đã bỏ phiếu tín nhiệm những ứng cử viên do Mặt trận Việt Minh giới thiệu. Trong danh sách của tỉnh Nam Định có 82 vị ứng cử, đã có 17 vị trúng cử, gồm các ông: Trần Huy Liệu, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Trân, Đặng Xuân Thiều, Bùi Đình Khiêm, Hồ Đức Thành, Nguyễn Tấn Gi Trọng, Bùi Xuân Mẫn, Vũ Đức Âu, Đặng Châu Tuệ, Đinh Khắc Anh, Vũ Xuân Sắc, Lê Trọng Nghĩa...

Giữa lúc toàn Đảng bộ và quân dân đang hăng hái thực hiện chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Trung ương Đảng và tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp thì một tin vui lớn đã đến với Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Nam Định.

    Chiều ngày 10-1-1946, tại trụ sở uỷ ban hành chính tỉnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện thân mật với đại biểu các tầng lớp nhân dân, đại biểu các tôn giáo và cán bộ các ngành, giới trong tỉnh. Bảy giờ sáng ngày 11-1-1946, trước hơn một vạn cán bộ, bộ đội và nhân dân mít tinh trước trụ sở uỷ ban hành chính tỉnh, Bác đã ân cần nhắc nhở mọi người phải đoàn kết thương yêu nhau, chăm lo mọi mặt công tác, ủng hộ Chính phủ.

    Sau đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thăm và thân mật chia quà cho các cháu đại diện cho thiếu nhi thành phố Nam Định. Trong thời gian ở Nam Định, Bác còn đến thăm và cho quà các cháu mồ côi đang nuôi dưỡng ở Nhà tế bần và Nhà dục anh.

    Những lời chỉ bảo ân cần của Bác đã để lại ấn tượng sâu sắc và cổ vũ Đảng bộ, nhân dân Nam Định đoàn kết, phấn đấu, khắc phục những khó khăn trở ngại để tiếp tục đi lên trong giai đoạn cách mạng mới.

    Trong không khí phấn khởi đó, ngày 20-1-1946 các cử tri Nam Định lại nô nức đi bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

    Đến ngày 18-3-1946, cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã được tiến hành, song thực chất là một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt ở nông thôn. Giai cấp nông dân, chủ yếu là bần, cố nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã biểu thị ý chí cách mạng, cương quyết giữ vững và củng cố thành quả cách mạng vừa giành được, chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của bọn địa chủ, cường hào và một số phần tử phản động, cơ hội hòng chui vào chính quyền để chiếm địa vị, giành giật quyền lợi giai cấp và cá nhân của chúng đã bị cách mạng tước bỏ. Một số xã ở các huyện Hải Hậu, Trực Ninh, Nam Trực vì tình hình chính trị còn phức tạp cho nên chưa tiến hành bầu cử được.

    Cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh, xã đã kết thúc thắng lợi, chọn ra được những đại diện của các tầng lớp, tôn giáo, nam nữ với thành phần gồm công nhân, nông dân và nhân dân lao động. Ba phần tư số này là lực lượng thanh niên giàu lòng yêu nước và nhiệt tình cách mạng. Riêng Hội đồng nhân dân tỉnh có một số trí thức và nhân sĩ tiến bộ tham gia.

    Sau cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, uỷ ban hành chính từ cấp tỉnh đến xã đều được bầu lại (trừ một số xã thuộc Hải Hậu, Giao Thuỷ chưa đủ điều kiện để tiến hành). Một số địa phương do thiếu cảnh giác nên một vài phần tử, đảng phái phản động, địa chủ, cường hào chui vào chính quyền xã hoặc có nơi còn để những phần tử đó chui vào uỷ ban hành chính cấp huyện, gây cho ta nhiều khó khăn sau này. Song nhìn chung thành phần của uỷ ban hành chính các cấp giữ vị trí chủ chốt đều do đảng viên hoặc quần chúng tốt đảm nhiệm. Những phần tử xấu chui vào chính quyền cũng bị quần chúng, nhất là lực lượng Thanh niên Cứu quốc đấu tranh, loại dần ra để thay thế bằng những người tốt, có năng lực nắm giữ vai trò chủ chốt. Do đó, bộ máy chính quyền ngày càng vững mạnh, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ nhiều hơn.

    Thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng bộ Nam Định hết sức coi trọng công tác xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Mặt trận Việt Minh có uy tín lớn trong nhân dân được củng cố và mở rộng. Các Ban Chấp hành Việt Minh từ tỉnh tới xã được thành lập và giữ vai trò rất quan trọng trong việc vận động, tổ chức quần chúng ở các địa phương. Nhiều đoàn thể quần chúng như Công nhân Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc được củng cố và phát triển. Tiếp đó, Hội Phật giáo Cứu quốc, Công giáo Cứu quốc, Phụ lão Cứu quốc, Hướng đạo Cứu quốc, Văn hoá Cứu quốc, Công thương Cứu quốc, Nhi đồng Cứu quốc được thành lập.

    Các cán bộ của Đảng, Mặt trận Việt Minh và của các ngành, giới được huấn luyện đào tạo cấp tốc để đưa về địa phương làm nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, tổ chức quần chúng. Việc phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, động viên tinh thần cách mạng của quần chúng, giáo dục lòng yêu nước, chí căm thù giặc Pháp và tay sai trong nhân dân được tiến hành bằng nhiều biện pháp, nhiều hình thức sinh động. Các Đội Tuyên truyền vũ trang được tăng thêm lực lượng và chuyển thành các Đội Tuyên truyền xung phong cùng với cán bộ của Mặt trận và các ngành, giới đi sâu xuống các thôn, xóm, đường phố tổ chức mít tinh, biểu tình, mở lớp huấn luyện học tập cho quần chúng. Các tầng lớp nhân dân lương cũng như giáo trong tỉnh đã nhiệt tình tham gia học tập, hội họp, sinh hoạt chính trị để nâng cao trình độ hiểu biết về cách mạng và hăng hái gia nhập các tổ chức cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Một không khí hồ hởi, phấn khởi sục sôi tinh thần cách mạng của quần chúng được dấy lên từ nông thôn đến thành thị. Chỉ tính đến cuối tháng 8-1945, toàn tỉnh đã thu hút hàng chục vạn quần chúng tham gia các tổ chức hội, đoàn thể (Công nhân Cứu quốc có 15.000 đoàn viên; Thanh niên Cứu quốc có 7.000 đoàn viên; Phụ nữ Cứu quốc chiếm tỷ lệ 0,8% dân số).

Bác Hồ và các vị trong Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được Quốc hội bầu tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa 1 (3-11-1946)
Bác Hồ và các vị trong Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được Quốc hội bầu tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa 1 (3-11-1946)

    Đảng bộ Đảng Dân chủ Việt Nam ở Nam Định lúc đầu do thu hút đảng viên thiếu chọn lọc nên tổ chức quá lỏng lẻo, hoạt động rời rạc. Từ tháng 3-1946, được sự giúp đỡ của Đảng bộ Đảng Cộng sản Nam Định, Trung ương Đảng Dân chủ Việt Nam đã cử cán bộ về chấn chỉnh lại nên sự hoạt động đã có tiến bộ, nhất là ở thành phố. Đảng bộ Đảng Dân chủ đã kết nạp được một số đảng viên trong giới công thương, công chức, tiểu chủ.

    Để mở rộng và củng cố hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù, ngày 1-10-1946, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) tỉnh Nam Định được thành lập, bao gồm Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh và các tổ chức ngoài Mặt trận Việt Minh (Đoàn Thanh niên Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam). Hội Liên Việt còn thu hút cả những cá nhân yêu nước, tiến bộ còn đứng ngoài Mặt trận Việt Minh, làm cho Mặt trận dân tộc thống nhất ở địa phương ngày càng được mở rộng.

    Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 3- 9-1945 và Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Trung ương Đảng, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng bộ Nam Định đã làm hết sức mình để cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Thi hành chủ trương của Chính phủ, uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nam Định đã xoá bỏ các loại thuế bất công do chính quyền thực dân, phong kiến đặt ra, nhất là thuế thân, bãi bỏ độc quyền thuế muối, rượu. Trong khi thi hành, có nơi tuyên bố xoá thuế đồng loạt, nên kẻ địch đã lợi dụng xuyên tạc khi ta tiến hành thu thuế muối (như ở Hải Hậu). Tuy còn có những thiếu sót đó song cơ bản chúng ta đã giải quyết được nguyện vọng thiết tha lâu đời của nhân dân. Vì vậy quần chúng vô cùng phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

    Trong quá trình đấu tranh giành chính quyền, tình hình lũ lụt đang có nguy cơ xảy ra. Nhiều quãng đê trong tỉnh bị sạt lở, đe doạ tính mạng, tài sản của hàng chục vạn người dân. Ngay sau khi giành lại được chính quyền, Đảng bộ và chính quyền cách mạng đã khẩn trương tập trung lực lượng vào công tác chống lụt. Các đảng viên của Đảng, cán bộ của Mặt trận Việt Minh cùng hàng vạn quần chúng, nhất là lực lượng thanh niên trong toàn tỉnh, suốt ngày đêm liên tục đắp đê, kè, ngăn nước. Mặc dù đang phải chống đói, nhưng với tinh thần làm chủ đất nước, mọi người đã hăng hái đóng góp hàng chục vạn cây tre, hàng nghìn gánh rơm rạ vận chuyển lên mặt đê, nhất là những đoạn xung yếu thuộc sông Hồng, sông Đáy, sông Đào để đắp đê chống lụt. Qua nhiều ngày đêm lao động khẩn trương của hàng vạn con người với sự chỉ đạo kiên quyết và kịp thời của Đảng bộ, nhân dân Nam Định đã thắng được nạn lụt. Đây là việc làm thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, vì lợi ích của nhân dân, được toàn dân ủng hộ, tạo niềm tin tưởng vững chắc của quần chúng đối với Đảng.

    Nạn đói tháng 3-1945 do Nhật, Pháp gây ra để lại những hậu quả nặng nề cho chính quyền cách mạng. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ Nam Định phát huy truyền thống đoàn kết trong nhân dân, phát động phong trào tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau qua khó khăn thiếu đói. Các tổ chức đoàn thể vận động hội viên lập Hũ gạo chống đói, quyên góp lương thực giúp đỡ những gia đình đang bị đứt bữa, làng xã nào cũng hô hào lập Quỹ nghĩa thương, tiết kiệm lương thực, tiết kiệm tiêu dùng để tương trợ, giúp đỡ người nghèo đói, cơ nhỡ. Chính quyền cách mạng ra lệnh nghiêm cấm triệt để nạn đầu cơ tích trữ lương thực, nạn nấu rượu bằng gạo. Nhân dân trong tỉnh đã quyên góp được hàng trăm tấn gạo cứu tế cho hàng ngàn gia đình bị đói. Tính riêng huyện Nghĩa Hưng từ tháng 9-1945 đến tháng 3-1946 đã quyên góp được 12 tấn gạo. Mặt trận Việt Minh huyện đã kịp thời phân phát số gạo cứu đói cho 1000 hộ dân ở địa phương.

    Song song với phong trào Nhường cơm sẻ áo, Lá lành đùm lá rách, Đảng bộ còn tập trung chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tận dụng mọi nguồn đất để trồng rau màu, cây lương thực ngắn ngày kịp thời chống đói và phòng đói. Chính quyền cách mạng thi hành chính sách giảm thuế điền thổ 20%, tiến hành kê khai ruộng đất vắng chủ giao cho những người thiếu ruộng đất để trồng trọt, thực hiện chính sách hoãn nợ, xoá nợ cho nông dân.

    Khẩu hiệu Tấc đất tấc vàng, Không để một tấc đất hoang đã trở thành hành động thực tế mạnh mẽ của mọi người dân. Ruộng đất hoang hoá được khai phá để trồng trọt. Huyện Vụ Bản đã cải tạo đưa vào cấy trồng trên 700 mẫu đất bỏ hoang, thùng đào thùng đấu, ruộng vắng chủ. Ngay cả nhân dân thành phố, thị trấn cũng tận dụng những khoảnh đất xung quanh nhà, kể cả vườn hoa và vỉa hè đất để trồng rau, màu chống đói. Việc đào mương chống hạn, đắp đê chống bão lụt, tu sửa đường sá phục vụ sản xuất và đi lại của nhân dân được tích cực đẩy mạnh. Năm 1946, toàn tỉnh đã đắp trên 77.000 m3 đất và 6.000 m3 đá cho đê sông; 20.000 m3 đá cho đê biển. Diện tích trồng cấy và năng suất các loại lương thực lúa, ngô, khoai, sắn của năm 1946 đều tăng hơn các năm trước. Nạn đói bị đẩy lùi. Đòi sống của nhân dân lao động được cải thiện một phần.

Người nông dân phấn khởi đóng góp thuế nông nghiệp
Người nông dân phấn khởi đóng góp thuế nông nghiệp

    Đi đôi với tập trung cho sản xuất và chống đói, Đảng bộ Nam Định từng bưóc thực hiện cải cách dân chủ nhằm mục tiêu Ruộng đất cho dân cày. Ngoài việc tích cực thu ruộng đất của bọn Việt gian, ruộng đất vắng chủ (chủ yếu của bọn phản động đã bỏ chạy) chia cho những hộ nông dân không có hoặc có quá ít ruộng. Chính quyền các cấp đã tiến hành chia lại ruộng công cho nông dân. Từ tỉnh đến huyện, xã đều thành lập Ban cấp điền. Trên cơ sở dựa vào sổ sách do chế độ cũ để lại và tình hình thực tế sử dụng đất ở địa phương, Ban cấp điền các xã tiến hành đo đạc, phân hạng, chia lại ruộng đất theo nguyên tắc bình đẳng, công bằng, hợp lý cho mọi công dân (cả nam nữ) từ 18 tuổi trở lên. Đối với những gia đình liệt sĩ, thương binh, bộ đội tại ngũ, cô nhi quả phụ, tàn tật có ưu tiên cho những phần đất tốt. Tuy có địa phương gặp một vài trở ngại do giai cấp địa chủ phong kiến tìm cách chống phá, cất giấu sổ đinh, sổ điền, báo cáo sai tình trạng ruộng đất. Song trước sức mạnh của chính quyển cách mạng và áp lực mạnh mẽ của quần chúng, cuộc đấu tranh chia lại ruộng công cho nông dân sau Cách mạng Tháng Tám ở Nam Định đã giành được thắng lợi. Vấn đề này có một ý nghĩa rất quan trọng, đem lại 40% ruộng đất cho tất cả nông dân, đáp ứng lòng mong mỏi khát khao của họ, nhất là người phụ nữ lần đầu tiên được hưởng quyền bình đẳng về kinh tế với nam giới.

    Tiếp theo, Đảng bộ còn thực hiện chính sách buộc chủ ruộng phải giảm 25% tô cho tá điền theo Thông tư ngày 20- 11-1945 của Uỷ ban nhân dân Bắc Bộ quy định. Ở những nơi nông dân bị địa chủ bóc lột nặng nề thì cuộc đấu tranh đòi giảm tô diễn ra gay gắt và có đổ máu. Tại ấp Xuân Thuỷ (Hải Hậu) nông dân giáo và lương đã đoàn kết đấu tranh với Vũ Ngọc Hoánh - một đại địa chủ phản động, đòi phải giảm tô 25% cho tá điền nhưng y đã ngoan cố không chịu thực hiện những yêu cầu chính đáng của nông dân và không chịu chấp hành chính sách của Nhà nước. Trước tình hình đó, Hội Nông dân Cứu quốc xã đã thành lập một Ban lãnh đạo đấu tranh và huy động quần chúng biểu tình phản đối. Sáng 24-6-1946, trong khi nông dân tập trung tới 600 người biểu dương lực lượng, thì cha con hắn đã dùng súng liên thanh bắn vào đoàn biểu tình, làm một người bị chết và hai người bị thương. Quần chúng vô cùng căm phẫn, xiết chặt hàng ngũ kiên quyết đấu tranh. Sau khi sự việc xảy ra, chính quyền tỉnh đã về tận nơi giải quyết, buộc chúng phải nhận tội và thực hiện đầy đủ các yêu cầu chính đáng của nông dân. Để trấn áp kịp thời những hành động phản cách mạng và đề cao pháp luật của Nhà nước, Toà án nhân dân Nam Định đã đưa chúng ra xét xử, phạt tù và buộc phải bồi thường thích đáng cho các gia đình bị hại.

    Bên cạnh những thắng lợi đã giành được trong việc quân cấp công điền và thực hiện giảm tô. Ở một số nơi kết quả còn bị hạn chế như chia công điền cho địa chủ ngang bằng với nông dân lao động. Trong chính sách giảm tô, lúc đầu một số địa chủ có chấp hành nhưng sau lại tìm cách thu tô lại như cũ, hoặc chỉ giảm lấy lệ vài ba phần trăm. Nguyên nhân của những khuyết điểm trên một phần do chưa nắm vững nội dung của chính sách, còn rụt rè, nể nang, nhưng chủ yếu do lập trường quan điểm giai cấp của cán bộ, đảng viên còn mơ hồ, chưa gắn chặt hai nhiệm vụ của cách mạng dân tộc, dân chủ; chưa dựa hẳn vào nông dân, chưa kết hợp phong trào đấu tranh của quần chúng với biện pháp hành chính của chính quyền. Đối với hành động chống phá chính sách giảm tô của Vũ Ngọc Hoánh còn biểu hiện hữu khuynh. Vì vậy thắng lợi bị hạn chế và tinh thần đấu tranh của quần chúng bị giảm đi một phần.

    Đối với giai cấp công nhân, Đảng bộ Nam Định cũng chú trọng chăm lo cải thiện và nâng cao đời sống cho người công nhân. Ở các nhà máy, xí nghiệp, chính quyền cách mạng thực hiện luật ngày làm 8 giờ; quy định chế độ lao động đảm bảo cho công nhân được quyền làm việc, học tập, nghỉ ngơi, tự do hoạt động, hội họp trong các đoàn thể quần chúng và các tổ chức của Nhà nước mà không bị chủ cấm đoán, ngăn trở. uỷ ban nhân dân cách mạng còn lập hội đồng giữa chủ và thợ, có đại biểu chính quyền tham gia để quy định mức tiền lương tối thiểu, việc tăng lương cho công nhân, quy định các quyền lợi khác mà công nhân được hưởng. Do đó bọn chủ Nhà máy sợi đã phải tăng lương cho công nhân từ 50-70% (so với trước) và cứ bốn tháng một lần mỗi người thợ được mua một kilôgam vải của nhà máy với giá rẻ. Chính quyền còn cung cấp gạo hằng tháng cho công nhân theo giá quy định và giải quyết việc làm cho công nhân thất nghiệp.

    Chính sách ngu dân của chế độ thực dân, phong kiến đã làm trên 90% dân số Nam Định bị mù chữ. Đây là một trong ba nhiệm vụ mà chính quyền cách mạng có trách nhiệm phải đẩy lùi.

    Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, phong trào học chữ quốc ngữ được dấy lên rộng khắp từ thành thị đến nông thôn. Các lớp học được mở ra ngay trong nhà dân, ở đình, chùa, đền. Nhiều cụ già 60-70 tuổi cũng say sưa ngồi học đánh vần, ghép chữ.

Lớp học Bình dân học vụ.
Lớp học Bình dân học vụ.

    Cuối năm 1945, các huyện đã mở lớp đào tạo giáo viên bình dân học vụ, đáp ứng phong trào học tập của các xã. Không khí học tập thật sôi nổi, đông vui suốt cả sáng, chiều, tối. Để cổ động cho việc xoá nạn mù chữ, phong trào sáng tác thơ ca, vẽ tranh áp phích để ca ngợi kịp thời gương sáng về dạy và học, phê phán những ai lười biếng, không chịu học chữ quốc ngữ đã diễn ra ở nhiều nơi. Các sáng kiến đố chữ, hỏi chữ ở ngang đường, trước cổng chợ cũng góp phần tạo ra không khí học tập sôi nổi.

    Với sự nỗ lực thi đua Người người đi học, nhà nhà đi học, chỉ trong thời gian ngắn toàn tỉnh đã thanh toán mù chữ cho hàng chục vạn người. Riêng huyện Vụ Bản có trên 2,5 vạn người biết đọc biết viết. Hơn 80% dân số trong huyện thoát mù chữ.

    Sự nghiệp giáo dục phổ thông cũng được Đảng bộ hết sức quan tâm chỉ đạo xây dựng hệ thống giáo dục từ tỉnh đến xã. Mỗi xã hoặc liên xã đều lập trường cấp I và huyện nào cũng có từ 1 đến 2 trường cấp II. Phong trào toàn dân đi học là một trong những nét tiêu biểu của một dân tộc đang vươn lên làm chủ cuộc đòi mình.

    Phong trào đời sống mới cũng được phát động rầm rộ, sôi nổi. Khẩu hiệu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra được tất cả mọi người hưởng ứng nhiệt liệt. Tình trạng lãng phí, xa hoa đã được hạn chế một phần. Những tệ nạn do xã hội cũ để lại (lưu manh, nhà thổ, cô đầu, nghiện hút, cờ bạc) đã được triệt để ngăn cấm và xử lý thích đáng. Ở nông thôn, tình trạng chè chén, xôi thịt trong ma chay, cưới xin linh đình gần như chấm dứt. Các hoạt động văn hoá từng bước được phát triển theo hướng văn minh, tiến bộ. Phong trào giữ vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân được mọi người, mọi nhà tích cực thực hiện.

    Trong lúc đời sống của nhân dân đang gặp khó khăn, đói kém, Đảng và Nhà nước đã thực thi nhiều chính sách kinh tế, xã hội để đảm bảo quyền lợi vật chất và tinh thần cho nhân dân lao động. Song nguồn ngân sách của Nhà nước cũng kiệt quệ trong khi nhu cầu chi tiêu lại rất lớn nên Chính phủ đã ban hành sắc lệnh về Quỹ độc lập và tổ chức Tuần lễ vàng, động viên sức hy sinh phấn đấu của đồng bào hăng hái ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc. Từ ngày 17 đến ngày 24-9-1945, Đảng bộ Nam Định đã tập trung tuyên truyền vận động và được đồng bào nhiệt liệt hưởng ứng. Nhân dân thành phố Nam Định đã ủng hộ 307 lạng vàng, 165 lạng bạc, 107 vạn đồng. Huyện Vụ Bản đã quyên góp được 14 lạng vàng, 43 lạng bạc, 4.536 đồng. Huyện Ý Yên cũng thu được 1 kg vàng. Huyện Trực Ninh được 2 lạng vàng, 2 chiếc nhẫn, 1 đôi khuyên vàng, 5.500 kg thóc và 314.921 đồng. Giám mục Hồ Ngọc Cẩn (Toà Giám mục Bùi Chu) đã góp 1 dây đeo tượng thánh bằng vàng (nặng 1 lạng 4 đồng cân). Trong cuộc vận động Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng, Nam Định được xếp thứ ba so với các tỉnh trong toàn quốc.

    Khi thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ, cùng với nhân dân cả nước, Đảng bộ và nhân dân Nam Định luôn luôn hướng về miền Nam ruột thịt. Các cuộc mít tinh, biểu tình phản đổi thực dân Pháp xâm lược đã diễn ra khắp nơi, biểu thị quyết tâm ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh kháng chiến. Hàng trăm thanh niên xung phong ghi tên gia nhập đoàn quân Nam tiến. Tháng 10-1945, một chi đội Nam tiến của Nam Định lên đường vào Nam chiến đấu, được bổ sung vào Mặt trận Tây Nguyên. Phong trào quyên góp ủng hộ đồng bào Nam Bộ kháng chiến đã thu được gần 5 vạn đồng; 250 kg gạo, thuốc men, vũ khí.

    Nhân kỷ niệm một năm cuộc kháng chiến Nam Bộ, ngày 23-9-1946, nhân dân thành phố Nam Định nhịn ăn một bữa cơm trưa, góp được 24.000 đồng. Thiếu nhi làng Dịch Diệp (Trực Ninh) cũng đóng góp được số tiền 500 đồng.

    Ở biên giới phía bắc, hơn 3.500 tàn quân Pháp chạy trốn quân Đồng minh sang Hoa Nam đang âm mưu tái chiếm Đông Dương, quay lại chiếm đóng Lai Châu, giúp đỡ bọn phỉ Đèo Văn Long nổi lên gây rối tại huyện Phong Thổ. Một số thanh niên Nam Định đã tham gia vào Chi đội Hà Nam đi Tây Tiến. Tháng 12-1945, chi đội này đã hành quân tới Sơn La.

    Trước âm mưu và hành động xâm lược trắng trợn của các thế lực bên ngoài và hoạt động phá hoại của các đảng phái phản động tay sai của chúng, Đảng bộ Nam Định đã hết sức coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang và bán vũ trang địa phương. Phong trào quần chúng tình nguyện tham gia lực lượng vũ trang, luyện tập quân sự, sắm sửa vũ khí, bảo vệ Tổ quốc đã thu hút nhiều thanh niên cả lương lẫn giáo trong công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động. Từ xã đến huyện đều có đơn vị tự vệ lưu động; thành phố Nam Định có bốn đại đội tự vệ. Tỉnh hội Phật giáo Cứu quốc cũng tổ chức được một trung đội tự vệ gồm những nhà sư trẻ tham gia.

Đội du kích Hồng Phong, huyện Nghĩa Hưng trong kháng chiến chống Pháp (1945 -1954)
Đội du kích Hồng Phong, huyện Nghĩa Hưng trong kháng chiến chống Pháp (1945 -1954)

    Việc xây dựng lực lượng vũ trang tập trung cũng được coi trọng. Từ một chi đội giải phóng quân (Chi đội 19) trong Cách mạng Tháng Tám 1945, Đảng bộ Nam Định đã tăng cường cán bộ lãnh đạo và phát triển lực lượng, biên chế thành nhiều đơn vị chiến đấu. Tháng 2-1946, tổ chức thêm một đại đội Quyết tử quân. Sau đó hai đơn vị này hợp nhất và đổi tên là Vệ quốc đoàn và tiếp đó đã xây dựng thành Trung đoàn 19, gồm 3 tiểu đoàn (75, 69, 101) và đại đội trợ chiến. Các chiến sĩ trong Trung đoàn đa số là những hội viên ưu tú trong các đoàn thể cứu quốc và một số binh sĩ cũ được giác ngộ. Riêng Tiểu đoàn 75, hầu hết là lực lượng tự vệ Nhà máy sợi.

    Bộ Quốc phòng và Khu uỷ khu II thành lập Trung đoàn chủ lực của khu mang tên Trung đoàn 33. Sau đó, Trung đoàn 33 đổi thành Trung đoàn 34 do đồng chí Cao Xuân Hổ làm Trung đoàn trưỏng, Hà Kế Tấn làm chính trị viên, Tùng Giang phụ trách công tác Đảng, công tác chính trị. Trung đoàn 34 là đơn vị bộ đội chủ lực của khu II phụ trách Mặt trận Hà - Nam - Ninh, nhưng hoạt động chủ yếu là địa bàn Nam Định, sở chỉ huy của Trung đoàn đặt tại nhà Vạn Bảo.

    Để đảm bảo điều kiện hoạt động cho lực lượng vũ trang tập trung và lực lượng dân quân du kích, Đảng bộ đã vận động nhân dân xây dựng quỹ quốc phòng, phát động nông dân ủng hộ mỗi mẫu ruộng 2 kg thóc. Huyện Vụ Bản đã góp được 144 tạ gạo, 4.536 đồng, mua 2.700 tờ công phiếu kháng chiến loại 200 đồng trở lên. Hai huyện Xuân Trường và Giao Thuỷ đã đóng vào quỹ quốc phòng trên 110 tấn thóc.

    Nhằm nâng cao sức chiến đấu của lực lượng vũ trang cách mạng, Đảng bộ Nam Định không ngừng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Số đảng viên trong lực lượng vũ trang đã lên tới 50 đồng chí, chiếm tỷ lệ gần 20% trong tổng số đảng viên toàn Đảng bộ. Một số cán bộ lãnh đạo của tỉnh được cử sang trực tiếp chỉ huy cấp trung đoàn, Cấp tiểu đoàn, đại đội và làm chính trị viên từ cấp trung đội trở lên.

Do yêu cầu huấn luyện quân sự và chỉ huy tác chiến, địa phương đã mạnh dạn sử dụng một số sĩ quan trước đây đã ở trong quân đội Pháp, Nhật được giác ngộ phụ trách một số đơn vị. Mặt khác, tỉnh còn cử đảng viên và quần chúng tốt đi học các trường, lớp quân sự. Nhiều lớp quân sự ngắn ngày được tổ chức ở các khu (liên xã) hoặc liên huyện như Trường Huấn luyện Quân sự liên khu Mỹ Lộc - Bình Lục.

    Nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng thiếu vũ khí, chính quyền vẫn dành một số kinh phí lo việc mua sắm mà chủ yếu mua của quân Tưởng, bước đầu trang bị cho các đơn vị Vệ quốc đoàn; phát động trong toàn dân phong trào Tự trang bị vũ khí, Tự sản xuất vũ khí thô sơ. Để có vũ khí tự trang bị, lực lượng tự vệ các xã Hoàng Hữu Nam, Minh Châu, Bắc Sơn, Vĩnh Thịnh có sự hỗ trợ của bộ đội huyện Nghĩa Hưng đã phục kích đánh chiếm 4 thuyền chở vũ khí, quân trang của lính Nhật khi chúng đi qua Hải Lạng. Quân dân huyện Hải Hậu bắt giữ 1 thuyền chở 13 lính Nhật khi chúng chạy trốn quân Đồng minh, tịch thu 4 đại liên, 1 khẩu cối 60mm và một số súng trường, súng ngắn, đạn dược. Theo lệnh của Khu uỷ, số vũ khí này đã giao cho các đơn vị Chi đội 19, một số cho Liên khu và công binh xưởng của tỉnh nghiên cứu, tu chỉnh. Ngoài ra Đảng bộ chỉ đạo thành lập xưỏng sửa chữa vũ khí (sau này gọi là Công binh xưởng tỉnh) và đã sản xuất được lựu đạn, mìn.

    Song song với công tác huấn luyện kỹ chiến thuật và trang bị quân sự cho lực lượng vũ trang, Đảng bộ rất chú trọng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, tinh thần chiến đấu và kỷ luật tự giác cho bộ đội. Nhờ đó lực lượng vũ trang ở Nam Định đã trở thành nòng cốt trong việc bảo vệ chính quyền cách mạng và sẵn sàng đối phó với mọi tình thế.

    Cơ quan liêm phóng và bộ máy công an từ tỉnh xuống các quận, các đồn được thiết lập. Công tác trấn áp bọn phản cách mạng, duy trì an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chính quyền cách mạng được chấn chỉnh. Song việc tuyển lựa cán bộ sang ngành an ninh, công an và tư pháp còn nặng về tiêu chuẩn trình độ học vấn, nhẹ về tiêu chuẩn phẩm chất chính trị, lại thiếu biện pháp giáo dục, kiểm tra nên đã gây ra nhiều khó khăn mà sau này phải tiếp tục khắc phục.

    Công tác xây dựng Đảng được chú trọng. Vì vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ ngày càng được tăng cường trên các lĩnh vực, kể cả khi Đảng tuyên bố tự giải tán.

    Trước và sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Ban lãnh đạo Nam Định chỉ có Ban cán sự Đảng tỉnh do cấp trên chỉ định. Đến tháng 7-1946, Trung ương Đảng ra Quyết định thành lập Ban Tỉnh uỷ lâm thời Nam Định, gồm bảy uỷ viên, do đồng chí Nguyễn Lam làm Bí thư. Để thống nhất hệ thống tổ chức Đảng từ tỉnh trở xuống, tháng 2-1947 Ban Tỉnh uỷ Nam Định quyết định thành lập các Ban Huyện uỷ lâm thời. Đảng bộ Nam Định từ vài ba chục đảng viên, đến cuối năm 1946 số lượng đã lên 270 đồng chí. Các chi bộ trong các cơ quan tỉnh, huyện được xây dựng. Những chức vụ chủ chốt từ tỉnh đến huyện đều do đảng viên đảm nhiệm.

    Hiểu rõ ý đồ đen tối của quân Tưởng, căn cứ vào Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Trung ương Đảng và Huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Đảng bộ về thái độ ứng xử với chúng, Tỉnh uỷ chủ trương một mặt nêu khẩu hiệu Hoa - Việt thân thiện, mặt khác phải kiên quyết giữ vững chủ quyền dân tộc nhưng mềm dẻo trong đối phó, hết sức tránh xung đột với quân đội của chúng. Biện pháp căn bản để đẩy lùi âm mưu và hành động phá hoại của bọn chúng là phải biết dựa vào lực lượng quần chúng, biểu dương sức mạnh của quần chúng làm hậu thuẫn cho chính quyền cách mạng. Đối với bọn Việt Nam Quốc dân Đảng và bọn tay sai phản động khác, phải kịp thời vạch trần những luận điệu và hành động chống phá cách mạng, phản bội Tổ quốc của chúng; kiên quyết trừng trị những tên có nhiều tội ác với nhân dân và cách mạng.

    Khi phái bộ của quân Tưởng đến Nam Định, Đảng bộ đã huy động trên ba vạn người ở nội, ngoại thành, dưới hình thức hoan nghênh phái bộ Trung Hoa, nhưng thực chất là để biểu dương sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân xung quanh Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Đoàn biểu tình đã giương cao khẩu hiệu "Đoàn kết xung quanh Chính phủ Hồ Chí Minh". Mấy ngày sau hai trung đoàn quân Tưởng kéo vào thành phố, Đảng bộ lại huy động trên năm vạn quần chúng biểu tình tuần hành qua các phố mang theo cờ đỏ sao vàng và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh với các khẩu hiệu "Nước Việt Nam của người Việt Nam", "Hoa - Việt thân thiện".

    Quân Tưởng vào thành phố đã tỏ thái độ hống hách, sách nhiễu, luôn gây rối, uống rượu say, đập phá, ăn quỵt, cướp giật hàng hoá, trêu ghẹo phụ nữ, dùng súng bắn vào tự vệ trong khi đang làm nhiệm vụ. Chúng tung tiền "Quan kim" ra vơ vét thóc gạo làm cho giá cả tăng vọt. Thái độ của chúng đã làm cho quần chúng phẫn uất. Đảng bộ đã kiên nhẫn giáo dục, hướng dẫn quần chúng đấu tranh tẩy chay, bất hợp tác với quân Tưởng. Mặt khác chính quyền ta đã thương lượng, thuyết phục bọn sĩ quan buộc chúng phải thay đổi thái độ. Ta đã dùng loại giấy bạc 500 đồng Đông Dương mà Pháp đã tuyên bố huỷ bỏ để mua vũ khí của quân đội Tưởng, trang bị cho bộ đội. Đề phòng sự phản trắc của quân Tưởng, lực lượng vũ trang của ta chỉ để lại một bộ phận nhỏ đóng trong thành phố, còn đại bộ phận rút ra ngoài tạo thế bao vây. Được quần chúng hết lòng ủng hộ, lực lượng công an đã bắt giữ một số tên phản động, trong đó có ba tên Tỉnh uỷ viên Việt Quốc. Tại số nhà 41 Lê Quý Đôn, nơi đóng trụ sở của bọn Việt Quốc, ta đã bố trí đưa người vào để nắm tình hình, bố trí lực lượng bao vây, giám sát. Mặc dù được quân Tưởng giúp đõ, che chở chúng vẫn không gây được ảnh hưởng gì đối với nhân dân ta, bị quần chúng nhân dân vô cùng khinh ghét. Khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi Nam Định, bọn Việt Quốc và bè lũ tay sai cũng chạy theo. Một số không chạy kịp phải chui vào các nhà thờ Thiên Chúa giáo để chờ chủ mới.

    Những biện pháp đấu tranh đúng đắn đó đã làm thất bại âm mưu thâm độc của bọn đế quốc và bè lũ tay sai, nâng cao khí thế của quần chúng và uy tín của chính quyền cách mạng. Thế và lực của cách mạng ngày càng vững mạnh.

    Sau sáu tháng đóng quân ở Bắc Bộ, quân đội Tưởng vẫn không thực hiện được âm mưu đen tối của chúng. Ngày 28-2- 1946, chúng đã thoả thuận cho Pháp thay mình giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Cùng thời gian này, theo thoả thuận giữa Mỹ và Anh, quân đội Anh nhường cho thực dân Pháp chiếm đóng miền Nam nước ta từ vĩ tuyến 16 trở vào.

    Thi hành Chỉ thị Hoà để tiến, Đảng bộ Nam Định đã mở một đợt giáo dục sâu rộng từ trong Đảng ra ngoài quần chúng, làm cho mọi người thấy rõ ý nghĩa thắng lợi của việc ký Hiệp định Sơ bộ 6-3, uốn nắn những tư tưởng lệch lạc (tả khuynh, hữu khuynh). Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình của quần chúng được tổ chức khắp nơi trong tỉnh để biểu thị lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, đòi phía Pháp phải chấp hành nghiêm chỉnh Hiệp định Sơ bộ. Ngày 15-3-1946, bốn vạn nhân dân nội, ngoại thành tổ chức mít tinh tại công viên thành phố để nghe giải thích Hiệp định Sơ bộ và ra Nghị quyết đòi:

" - Thi hành đúng Hiệp định Việt - Pháp.
- Việt Nam có toàn quyền ngoại giao.
- Nam Bộ của người Việt Nam, phản đối trưng cầu dân ý.
- Mở ngay một cuộc đàm phán chính thức tại Pari.
- Ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh".

    Ngày 3-4-1946, đại diện của ta đã ký với Pháp một hiệp định cụ thể, cho Pháp được đóng quân ở tám nơi trên miền Bắc. Theo hiệp định, đầu tháng 4-1946, quân đội Tưởng rút về nước, quân Pháp vào thay thế. Hơn 800 quân Pháp thuộc binh đoàn thuộc địa số 6 về đóng tại thành phố Nam Định (trại Carô, nhà thờ Sanhtôma, Nhà máy sợi, dãy nhà sĩ quan và một số quân luân phiên gác ở Nhà máy tơ, Nhà băng, Nhà máy chiếu, Nhà máy rượu), sở chỉ huy của chúng đóng tại nhà của chủ Nhà máy sợi (nay là nhà Bảo tàng truyền thống của Công ty dệt Nam Định).

    Theo chỉ thị của Trung ương, Đảng bộ Nam Định đã động viên nhân dân trong tỉnh khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, uỷ ban bảo vệ được thành lập từ tỉnh xuống xã. Các đồng chí Bí thư cấp uỷ đảm nhiệm Chủ tịch uỷ ban bảo vệ, có nhiệm vụ chăm lo mọi mặt công tác chuẩn bị sẵn sàng kháng chiến.

    Đúng như Đảng ta nhận định, thực dân Pháp đã nhanh chóng bội ước những điều đã ký, không ngừng lấn chiếm ở Nam Bộ, tiến công khiêu khích nhiều nơi ở Bắc Bộ. Tại Nam Định chúng cho xe nhà binh có quân lính, súng liên thanh chạy trên đưòng phố, gây rối trật tự trị an, khiêu khích lực lượng tự vệ, đe doạ tinh thần nhân dân. Tối 1-5-1946, nhân ngày Quốc tế Lao động, thành phố Nam Định tổ chức cuộc rước đuốc. Khoảng 5.000 người đã tuần hành qua các phố. Khi tới ngã tư Cửa Đông (nay là ngã tư Trần Hưng Đạo - Trần Phú) thì lính Pháp đã ném lựu đạn khiêu khích. Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ đã thông qua phái đoàn của ta trong Ban Liên kiểm Việt - Pháp đấu tranh đòi chúng phải thực hiện những điều đã ký kết; giáo dục quần chúng cảnh giác trước âm mưu khiêu khích của địch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm thiếu nhi thành phố Nam Định, ngày 11-1-1946.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm thiếu nhi thành phố Nam Định, ngày 11-1-1946.

    Hưởng ứng chủ trương của Trung ương Đảng lấy ngày 27-6-1946 làm ngày phát động Toàn quốc phản đối đế quốc Pháp vi phạm Hiệp định Sơ bộ, tại thành phố Nam Định, tất cả các nhà máy, cửa hàng, chợ búa đều nhất loạt bãi công, bãi thị, bất hợp tác với Pháp. Hàng vạn quần chúng mít tinh, gửi kiến nghị đến phái đoàn Chính phủ tại Pari, đòi Pháp mở ngay cuộc đàm phán tại Pari, không được vi phạm Hiệp định Sơ bộ, khủng bố nhân dân Nam Bộ và khẳng định Nam Bộ là đất của Việt Nam.

    Trước sức đấu tranh kiên quyết và bền bỉ của toàn dân ta, cùng với dư luận thế giới và nhân dân tiến bộ Pháp, ngày 6-7-1946 cuộc đàm phán chính thức giữa Chính phủ ta và Chính phủ Pháp đã khai mạc tại Phôngtennơblô, nhưng trong quá trình hội nghị, phía Pháp vẫn tìm mọi cách phá hoại cuộc đàm phán. Với ý định dành thêm thòi gian để tăng cường lực lượng và làm cho nhân dân Pháp, nhân dân thế giới thấy rõ thiện chí của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước 14-9.

    Đúng như Đảng ta đã dự đoán, thực dân Pháp vẫn tiếp tục thực hiện Việc đã rồi hòng đặt lại ách thống trị của chúng trên đất nước ta. Chúng vẫn điên cuồng mở rộng chiến tranh xâm lược ở Nam Bộ, tăng cường khiêu khích và tấn công đánh chiếm một số nơi ở miền Bắc.

    Tại Nam Định, quân Pháp phô trương lực lượng, vi phạm chủ quyền trong vấn đê thuế quan và kiểm soát ngoại thương (tự ý tăng thuế bình quân đánh vào bông nhập nội từ 20 đồng lên 40 đồng một kilôgam, khiến cho chủ Nhà máy sợi đã tăng giá vải lên gấp đôi).

    Trước tình hình đó, Đảng bộ tỉnh vẫn kiên trì thông qua đại diện của mình trong Ban Liên kiểm Việt - Pháp đấu tranh với chúng, tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình đòi Pháp phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9. Ngày 25-10-1946, uỷ ban hành chính tỉnh Nam Định đã gửi thư yêu cầu uỷ viên sở kinh tế Bắc Kỳ của địch và bọn chủ Nhà máy sợi phải huỷ bỏ ngay việc tăng giá vải. Song chúng không chịu đáp ứng yêu cầu của ta, lại còn tăng giá vải cân bán cho công nhân lên gấp đôi và tự ý dãn thợ, làm cho 200 công nhân mất việc làm.

    Để bảo vệ chủ quyền dân tộc và quyền lợi thiết thực của công nhân, dưới sự lãnh đạo của Trung ương và Xứ uỷ, Tỉnh uỷ chủ trương phát động toàn thể công nhân Nhà máy sợi đấu tranh chống thái độ ngoan cố của chủ nhà máy. Uỷ ban đấu tranh của công nhân được thành lập. Chi bộ Đảng của nhà máy giải thích rõ cho công nhân về âm mưu của địch, kế hoạch chuẩn bị đấu tranh. Ngày 12-11-1946, sau khi công nhân đã lĩnh lương, uỷ ban đấu tranh đã cử đại diện đến chất vấn và đòi chủ tư bản và Chính phủ Pháp bãi bỏ lệnh tăng giá vải, không được dãn thợ vô lý, phải để những thợ bị dãn được tiếp tục đi làm nhưng chủ nhà máy vẫn ngoan cố không chấp nhận những yêu cầu đó. Theo chỉ thị của Tỉnh uỷ, sáng sớm ngày 13-11-1946 cuộc đình công đã nổ ra, công nhân Nhà máy sợi đã nhất loạt nghỉ việc. Báo Cứu quốc và tất cả các báo chí lúc đó đã kịp thời đưa tin về cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân Nhà máy sợi và nhiệt liệt biểu dương tinh thần tích cực đấu tranh của anh chị em, đồng thời kêu gọi giai cấp công nhân và nhân dân cả nước ủng hộ.

    Cuộc đấu tranh vừa nổ ra đã được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân Nam Định và đồng bào cả nước. Công nhân vận tải thành phố Nam Định nêu khẩu hiệu ủng hộ công nhân Nhà máy sợi. Thủy thủ tàu Giắccơlin (Công ty bông sợi Bắc Kỳ) cũng nghỉ việc, không bốc hàng xuống tàu, làm cho kế hoạch vận tải ra Hồng Gai cho quân đội Pháp bị phá vỡ. Nhân dân Nam Định, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Phú Thọ, Quảng Ngãi đã gửi điện, thư động viên và quyên góp tiền, thuốc, ủng hộ anh chị em công nhân Nhà máy sợi. Cuộc đấu tranh đã kéo dài đến ngày toàn quốc kháng chiến gây thiệt hại to lớn cho bọn tư bản. Anh chị em công nhân Nhà máy sợi mặc dù đời sống gặp nhiều khó khăn thiếu thốn hơn nhưng tinh thần đấu tranh vẫn vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền cách mạng.

    Đứng trước nguy cơ của cuộc chiến tranh đến gần, Đảng bộ và nhân dân Nam Định hết sức tranh thủ thời gian hoà hoãn, khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến. Từ giữa tháng 9 đến tháng 12-1946, uỷ ban Bảo vệ tỉnh và các đội tự vệ thành phố gồm 700 người và mỗi huyện một đội tự vệ; lập nhiều đội phá bom và đội cảm tử làm công tác phá hoại; tổ chức huấn luyện gấp cho dân quân, tự vệ; tổ chức đào nhiều hầm hố, làm nhiều công sự trong thành phố và các ngả đường vào thành phố, chuẩn bị kế hoạch và phương án tác chiến. Mạng lưới giao thông liên lạc được tổ chức, đảm bảo sự chỉ đạo nhanh chóng và kịp thời từ tỉnh đến các huyện, uỷ ban bảo vệ các cấp vận động nhân dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, dự trữ được 20 tấn gạo, 1 tấn lương khô, 1 tấn đường và mật... để cho bộ đội, tự vệ chiến đấu. Công tác tuyên truyền cũng được chú trọng nhằm làm cho các tầng lớp nhân dân, kể cả Hoa kiều, Ấn kiều hiểu rõ tình hình nhiệm vụ mối và đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ trong giai đoạn hiện tại. Uỷ ban bảo vệ tỉnh đã tổ chức cơ quan ấn loát, ra báo và chuẩn bị nhiều truyền đơn, biểu ngữ kêu gọi kháng chiến; củng cố và mở rộng công binh xưởng để sửa chữa vũ khí. Các mặt công tác y tế, cứu thương, vận động nhân dân tản cư cũng được chuẩn bị chu đáo. Phong trào tự trang bị vũ khí trong nhân dân ngày càng phát triển sâu rộng. Dân quân, tự vệ mỗi người đều có một thứ vũ khí thô sơ như kiếm, mã tấu, dao găm, gậy gộc. Nhiều huyện tự mua sắm vũ khí trang bị đủ cho một trung đội, có nơi đã có cả súng liên thanh. Sau khi quân Pháp gây xung đột đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn, Tỉnh uỷ Nam Định cùng Ban chỉ huy Trung đoàn 34 họp liên tịch bàn một số công việc cần kíp về nhiệm vụ chính trị và quân sự của địa phương. Trong thành phố Nam Định, các ổ tác chiến, các chướng ngại vật được xây dựng. Nhiều trục đường giao thông quan trọng như Ngã tư Cửa Đông, Ngã sáu Năng Tĩnh được đắp ụ để ngăn cơ giới địch. Nhiều đoạn đường biến thành giao thông hào. Các dãy phố được đục tường thông từ nhà nọ sang nhà kia để bộ đội, tự vệ vận động đánh địch. Mọi nhà trong thành phố đều dự trữ gạo, lương khô, cong nước cho bộ đội. Các đội cứu thương, tiếp tế được thành lập và huấn luyện rất khẩn trương. Ban Chỉ đạo tản cư tích cực vận động và tổ chức cho các cụ già, trẻ em đi trước.

    Ngày 17-12-1946, quân Pháp khiêu khích và gây hấn ở Hà Nội, bắn vào tự vệ ở phố Hàng Bún. Ngày 18-12-1946, chúng ngang ngược đưa tối hậu thư đòi tước vũ khí lực lượng tự vệ thủ đô. Tại Nam Định, chúng yêu cầu chính quyền ra lệnh tự vệ hạ vũ khí, phá bỏ các chướng ngại vật ở Cửa Đông, Ngã tư Máy Tơ, bến Đò Quan. Chúng cho quân lính xông vào cướp lựu đạn của tự vệ gác ở Ngã tư Máy Tơ. Tối ngày 19-12, một số lính Pháp ở nhà thờ Sanhtôma kéo ra Ngã tư Cửa Đông giở trò khiêu khích rồi vô cớ bắn vào tự vệ nên đã bị tự vệ bắn trả. Dựa vào cớ đó, tên thiếu tá Đabôvan đòi ta phải giải tán lực lượng tự vệ. Quan hệ hai bên trở nên hết sức căng thẳng. Khả năng duy trì hoà bình hết sức mỏng manh.

    Ngày 19-12-1946, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp đã bắt đầu.

    Đảng bộ và nhân dân Nam Định đã phải trải qua hơn một năm gay go, phức tạp vừa xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân vừa chống lại bọn đế quốc bên ngoài và bè lũ phản cách mạng bên trong. Nhờ Đảng bộ nắm và vận dụng đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng vào hoàn cảnh địa phương một cách đúng đắn và sáng tạo, tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng là xây dựng, củng cố chính quyền từ tỉnh xuống xã, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân thông qua tổ chức Mặt trận Dân tộc Thống nhất rộng rãi trên cơ sở liên minh công nông, luôn luôn chú trọng xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang địa phương. Thông qua bộ máy chính quyền, Đảng bộ hết sức chăm lo cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân trí cho nhân dân, giáo dục động viên và tổ chức quần chúng tham gia mọi hoạt động cách mạng ở địa phương, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

    Trong tình thế hết sức hiểm nghèo, cùng một lúc phải đối mặt với ba kẻ thù nguy hiểm (giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm), song Đảng bộ biết dựa vào nhân dân, hướng cho quần chúng tập trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược và bè lũ tay sai; vận dụng đúng đắn và linh hoạt sách lược đối với quân Tưởng, góp phần làm thất bại âm mưu đen tối của chúng.

    Vì vậy, Đảng bộ và nhân dân Nam Định đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách; đã hoàn thành việc củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng; chuẩn bị tốt về mọi mặt, vững vàng bước vào cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc.

II. PHÁT ĐỘNG TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN, TIẾN CÔNG GIAM CHÂN ĐỊCH TRONG THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH (TỪ 19-12-1946 ĐẾN 3-1947)

    Ngày 19-12-1946, Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng đã quyết định phát động nhân dân toàn quốc đứng lên kháng chiến chống lại chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Chiều 19-12, đồng chí Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy đã hạ lệnh cho toàn thể bộ đội, dân quân, tự vệ trong cả nước nhất tề đứng dậy giết giặc cứu nước. Đến 8 giờ tối, quân dân Thủ đô Hà Nội đã đồng loạt nổ súng, mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc.

    Ngày 20-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi đồng bào toàn quốc đứng lên kháng chiến cứu nước. Trong lời kêu gọi, Người đã khẳng định:

    "Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

    Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...

    Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta".

    Ngày 22-12-1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, vạch ra những nét lớn về đường lối kháng chiến của nhân dân ta. Phương châm là đánh lâu dài, tự lực cánh sinh.

    Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng cũng như tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh sau này là những văn kiện có tính chất cương lĩnh cách mạng của Đảng trong cuộc kháng chiến, đồng thời là ngọn đuốc soi đưòng, tiếng kèn động viên, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xiết chặt đội ngũ quyết đánh, quyết thắng giặc Pháp xâm lược.

    Trước khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, Ban chỉ huy Mặt trận gồm các đồng chí Đỗ Mười - Bí thư Tỉnh uỷ, Nguyễn Hữu Ninh - Chủ tịch uỷ ban hành chính tỉnh Nam Định, Hà Kế Tấn - Chính trị viên Trung đoàn 34, Cao Xuân Hổ - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 34, đã họp tại thôn Mỹ Trọng (ngoại thành Nam Định) nghe đồng chí Hoàng Sâm - Khu trưởng khu II về truyền đạt mật lệnh và chủ trương của Trung ương Đảng; phổ biến kinh nghiệm tác chiến ở Hải Phòng, Lạng Sơn và Nam Bộ, bàn thống nhất kế hoạch tác chiến, chỉ rõ nhiệm vụ của quân dân Nam Định trong việc chuẩn bị khẩn trương mọi mặt để tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ.

    Trong kế hoạch tác chiến, Ban chỉ huy Mặt trận Nam Định đã xác định rõ quyết tâm chủ động tiến công bao vây quân Pháp trong nội thành Nam Định nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của chúng, tạo điều kiện cho địa phương góp phần với cả nước có đủ thời gian và lực lượng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Lực lượng bộ đội đã được điều động ra các vị trí ngoại thành hình thành thế bao vây quân địch trong thành phố. Lực lượng tự vệ, dân quân của thành phố và các huyện lân cận được điều động tăng cường sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

    Ban chỉ huy Mặt trận Nam Định nhận được chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy nêu rõ chủ động bao vây, bí mật chuẩn bị tiến công quân địch ở Nam Định, giờ nổ súng có lệnh tiếp. Tỉnh uỷ và Ban chỉ huy Trung đoàn 34 đã họp, quán triệt nhiệm vụ và quyết định một số biện pháp khẩn cấp:

    Phổ biến chủ trương, nhiệm vụ chiến đấu theo tinh thần chỉ thị và mật lệnh của Trung ương và Bộ Tổng chỉ huy tới các Huyện uỷ, Thành uỷ, các cán bộ tiểu đoàn, đại đội thuộc Trung đoàn 34.

    Tiến hành kiểm tra, đôn đốc để thực hiện các công việc cần kíp đã đề ra.

    Khẩn trương di chuyển các cơ quan còn lại ở thành phố về hết nông thôn.

    Bảo vệ nhân dân tản cư ra ngoài thành phố.

    Có kế hoạch bảo vệ tài sản của đồng bào nội thành chưa mang đi kịp.

    Bộ đội Vệ quốc đoàn và dân quân tự vệ nhanh chóng vào vị trí chiến đấu.

    Sau khi được lệnh nổ súng, tại một địa điểm trong thành phố, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ cùng Ban chỉ huy mặt trận họp bàn và quyết định phát động toàn quân, toàn dân Nam Định đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

    Hai mươi bốn giờ ngày 19-12-1946, từ hướng đại đội trợ chiến (đóng ở bên kia sông Đào), hiệu lệnh tiến công bắt đầu bằng tiếng đạn pháo 75mm bắn vào Nhà băng Nam Định. Lập tức, toàn mặt trận nổ súng đánh địch, cả thành phố rền vang tiếng súng.

    Tự vệ thành phố nổ mìn ngả cây to dọc đường Trần Hưng Đạo và từ Ngã tư Cửa Đông đến Toà Thị sảnh. Nhiều người dân thành phố đã không ngần ngại mang đồ đạc của mình (tủ, sập) ra đưòng làm vật chướng ngại chặn bước tiến của quân địch. Nhân dân các khu Nhà lá (Văn Miếu), trại Con gái (vợ lính khố đỏ) nổi lửa tự đốt nhà ở của mình. Những đám cháy bốc lên ở khắp nơi. Cả thành phố rực lên như một biến lửa. Cuộc chiến đấu diễn ra liên tục và quyết liệt.

    Bị quân ta tập kích bất ngờ và đồng loạt, quân địch hết sức hoang mang. Nhờ có ưu thế về vũ khí, trang bị, tường thành kiên cố, chúng đã chống đỡ, từng bước kiềm chế sự tấn công của ta. Ta chiếm được nhà này, chúng cố thủ nhà khác. Ta chiếm tầng dưới, chúng giữ tầng trên. Ta chiếm giữ một số vị trí trong đêm, chúng phản kích mạnh mẽ buộc ta phải rút ra lúc trời sáng. Vào lúc 8 giờ sáng ngày 20-12-1946, máy bay và pháo của địch dội bom và bắn phá nhiều đợt vào các trận địa của ta. Thành phố rung chuyển và chìm trong khói lửa. Bộ binh địch từ vị trí Nhà máy sợi nổ súng phản kích chiếm lại vị trí Nhà máy tơ và lấy xác binh lính của chúng bị chết trận trong đêm. Cùng lúc, chúng từ trại Carô theo đường Lê Quý Đôn nống ra định lấn chiếm nhà Ga nhưng bị quân ta chặn đánh, buộc phải quay lại.

    Sáng ngày 21-12-1946, sau khi cho máy bay đến bắn phá, địch tăng cường lực lượng có xe bọc thép mở đường, từ trại Carô tiến ra quyết chiếm nhà Ga. Để bảo toàn lực lượng, đơn vị bảo vệ khu Ga được lệnh rút ra vòng ngoài, đến đêm lại cùng toàn mặt trận tiếp tục chiến đấu.

    Ngày 23-12-1946, địch từ trại Carô tiến đến khu vực Năng Tĩnh và từ vị trí Nhà máy sợi đánh thọc ra phía trụ sở uỷ ban hành chính tỉnh (Toà Thị sảnh cũ) hòng liên lạc với quân ở vị trí Nhà băng, nhưng đều bị lực lượng của ta đánh bật trở lại. Chiến sự diễn ra rất ác liệt tại Nhà máy tơ, Nhà máy sợi, Nhà băng, khu vực Ga. Tiểu đoàn 69, 75 cùng lực lượng tự vệ đánh giáp lá cà, giành giật với địch từng căn buồng, từng tầng gác. Đến hết tháng 12-1946, ta và địch giành giật từng vị trí, từng đường phố và quyền chủ động chiến trường vẫn thuộc về quân dân ta.

Cảm tử quân trong những ngày toàn quốc kháng chiến
Cảm tử quân trong những ngày toàn quốc kháng chiến

Để tập trung thống nhất sự chỉ đạo ở địa phương, thi hành chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 31-12-1946 uỷ ban kháng chiến tỉnh Nam Định được thành lập, thay cho uỷ ban bảo vệ, do đồng chí Đỗ Mười - Bí thư Tỉnh uỷ làm Chủ tịch. Các huyện, xã cũng lần lượt thành lập uỷ ban kháng chiến. Tháng 1-1947 lại thành lập uỷ ban dân quân tỉnh để tham mưu trong việc chỉ đạo công tác quân sự, tổ chức huấn luyện tân binh bổ sung cho quân đội, xây dựng các đơn vị tập trung của tỉnh. Ngày 27-2-1947, tại trụ sở của Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh đặt ở chùa Cổ Lễ (Trực Ninh) đã tổ chức tiễn đưa 24 nhà sư trong đó có hai sư nữ tòng quân chiến đấu.

Cùng với các hoạt động tiến công, bao vây quân sự, chặn đứng âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của chúng, Tỉnh uỷ chỉ đạo chặt chẽ việc giữ gìn trật tự giao thông, trị an xã hội, đảm bảo tốt việc tản cư hết dân và ngoại kiều ra ngoài, chuyển máy móc, tài sản của Chính phủ về căn cứ; tổ chức việc tiếp tế, cứu thương, hỗ trợ cho mặt trận, thực hiện triệt để công tác phá hoại, nhất là triệt phá các tuyến giao thông quan trọng từ thành phố đi các huyện. Ngay từ lúc kháng chiến bùng nổ, các cấp uỷ, chính quyền thành phố đã chỉ đạo thực hiện việc hướng dẫn những người không có nhiệm vụ chiến đấu mà chưa kịp tản cư nay tản cư hết ra ngoài, với khẩu hiệu "Tản cư cũng là kháng chiến". Các ngoại kiểu còn ở lại cũng được bảo vệ tính mạng, tài sản và tiếp tế lương thực, thực phẩm. Tuy từ thời bình chuyển sang thời chiến rất khẩn trương nhưng trật tự trị an xã hội vẫn đảm bảo tốt, không để xảy ra hiện tượng tiêu cực, mọi người đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ nhau làm tốt mọi nhiệm vụ.

Các tầng lớp nhân dân trong tỉnh luôn luôn hướng về thành phố sát cánh với lực lượng vũ trang cùng chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Thanh niên, công nhân đã tình nguyện ở lại, đào thêm hào, đắp thêm ụ, đặt thêm chướng ngại vật ở những nơi địch sẽ lấn ra; phá hoại những nơi có thể có lợi cho quân địch. Nhiều người đã xung phong vượt qua hoả lực của địch để chuyển thương binh, tử sĩ ra ngoài hoặc đến tận các tiểu tổ chiến đấu tiếp tế vũ khí, đạn dược và cơm ăn, nước uống cho các chiến sĩ. Nhiều bậc phụ lão đã đến nuôi dưỡng thương binh. Các bà, các chị chăm lo công việc cấp dưỡng, bảo đảm bữa ăn ngon cho các chiến sĩ, đưa cơm nước đến tận các chiến hào. Nhiều thiếu nhi đã tìm mọi cách ở lại, xin làm liên lạc hoặc tham gia canh gác giữ gìn trật tự an ninh, phòng gian bảo mật trong thành phố. Có trường hợp như Phan Đỗ Hải mới 13 tuổi, là liên lạc của một đơn vị thuộc Trung đoàn 34, đầu năm 1947 trong khi đi công tác, bị địch bắt nhưng đã kịp thời huỷ tài liệu nên chúng không phát hiện được. Trong thời gian bị địch giam giữ Phan Đỗ Hải đã cảm hoá được hai lính Pháp cùng theo kháng chiến, được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư và tặng bài thơ khen ngợi thành tích. Nhân dân các huyện gần thành phố như Vụ Bản, Nam Trực, Mỹ Lộc và Lý Nhân (Hà Nam) hăng hái tham gia đào đắp công sự, ổ tác chiến, giao thông hào, cắt đứt các tuyến đường từ thành phố đi các nơi. Hằng ngày có tới hàng vạn gánh rơm rạ được chuyển vào thành phố dùng để đánh hoả công các vị trí địch, nhất là Nhà băng. Hàng vạn cây tre được cắm xuống dòng sông Đào. Hàng trăm chiếc thuyền được xếp đầy đá dìm xuống các cửa sông, cửa biển ngăn cản tàu chiến địch. Tuyến đường sắt qua Nam Định bị tê liệt hoàn toàn. Nhân dân nội thành còn tháo dỡ, vận chuyển máy móc của các xí nghiệp ra hậu phương để xây dựng công binh xưởng. Nhiều huyện còn cử những đội du kích vào nội thành phối hợp chiến đấu. Các chiến sĩ du kích từ Nam Trực đã vượt sông Đào sang phối hợp tác chiến ở khu vực Nhà máy sợi C; từ Vụ Bản ra đã tham gia chiến đấu ở khu vực Đông An, Năng Tĩnh và nhà Ga; từ Mỹ Lộc, Lý Nhân (Hà Nam) phối hợp bao vây quấy rối tiêu hao lực lượng địch. Một số đơn vị bộ đội, dân quân tự vệ tỉnh Thái Bình cũng được đưa sang cùng quân dân Nam Định đánh địch và để rút kinh nghiệm từ thực tế chiến đấu.

Khí thế chiến đấu không sợ hy sinh, một lòng một dạ giết giặc lập công như Đoàn Bạch Hạc - Chính trị viên trung đội (Tiểu đoàn 69), Triệu Hàn - Tiểu đội trưởng (Tiểu đoàn 69) dũng mãnh chỉ huy đơn vị chiến đấu dưới làn mưa đạn của địch, trong trận tấn công vị trí giặc ở khu vực Ga và trại Carô, lập công xuất sắc; Phạm Sơn - công nhân vận chuyển - tự vệ Nhà máy sợi mớí tình nguyện vào bộ đội thuộc Tiểu đoàn 75 - hai lần xung phong nhận nhiệm vụ đâm bom ba càng vào vị trí đóng quân của địch ở Nhà băng còn sống mãi trong lòng nhân dân địa phương.

Qua nhiều lần phản kích không kết quả. Quân số, vũ khí đạn dược bị hao hụt nghiêm trọng. Các cơ sở điện, nước bị ta đánh phá không sử dụng được, quân Pháp tỏ ra rất hoang mang, có nơi phải xin ta ngừng bắn để đi kiếm nước và rau. Đabôvan điện về Hà Nội thừa nhận: "Quân viễn chinh Pháp đóng ở Nam Định đang lâm vào thế nghẹt thở và hoàn toàn bị cô lập". Ngày 4-1-1947, trong nỗi "lo ngại nhất" là đám quan quân dưới quyền đang khốn đốn trăm bề ở thành phố Nam Định, Lơcơléc đã gửi cho Đabôvan bức công điện động viên "tỏ lòng khâm phục" với lời hứa rằng: mọi nỗ lực đều nhằm vào việc giải toả Nam Định. Hai mươi bốn giờ sau, cuộc viện binh giải vây đầu tiên cho Nam Định được tiến hành.

Ngày 5-1-1947, địch liên tục cho máy bay khu trục đến bắn phá, ném bom xuống khu vực Năng Tĩnh, phố Khách (nay là đường Hoàng Văn Thụ) hòng tiêu diệt lực lượng của ta. Song do tổ chức phòng tránh tốt nên quân ta thiệt hại không đáng kể. Đến 8 giờ tối ngày 5-1-1947, địch cho 6 máy bay Đakôta đổ khoảng 200 quân cùng hàng tiếp tế xuống các khu vực Nhà máy sợi C, Nhà máy chiếu, Năng Tĩnh. Ban chỉ huy Mặt trận kịp thời chỉ đạo các đơn vị dùng súng bộ binh sẵn có tiếp cận đánh địch. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 75 Trần Quang Thường lệnh cho tất cả súng máy chuyển lên nóc nhà tầng nhằm cửa máy bay - nơi quân dù nhảy ra đón bắn; dùng súng trường bắn thủng dù và hòm hàng. Địch hốt hoảng nên nhiều dù người, dù hàng rơi lạc xuống khu vực của ta. Bằng mọi cách, với mọi thứ vũ khí, các chiến sĩ đã dũng cảm xông ra diệt địch khi chúng vừa chạm đất. Nhân dân thành phố Nam Định hăng hái phục vụ bộ đội chiến đấu và nhiều người đã trực tiếp đánh quân dù.

Đại hội luyện quân lập công lần thứ hai của Trung đoàn Tất Thắng, tại huyện Hải Hậu, năm 1949.
Đại hội luyện quân lập công lần thứ hai của Trung đoàn Tất Thắng, tại huyện Hải Hậu, năm 1949.

Cuộc chiến đấu chống quân dù kéo dài đến 2 giờ sáng ngày 6-1-1947. Quân ta đã bắn bị thương gần 40 tên địch, bắt sống 6 tên, thu hàng chục khẩu súng các loại, hàng tấn đạn dược, lương thực và rất nhiều dù. Khoảng hai phần ba số quân dù thoát chết chạy vào vị trí Nhà máy sợi c.

Sáng ngày 6-1-1947, được tin địch có ba ca nô và tàu chiến, được máy bay yểm trợ, chở 200 tên lính từ sông Hồng tiến vào sông Đào. Trung đoàn ra lệnh cho các Tiểu đoàn 75 và 69 theo dõi triển khai lực lượng chiến đấu.

Khoảng 6 giờ sáng, sương mù tan dần. Ca nô, tàu chiến của địch vào tới khu vực Đò Quan. Pháo 75 ly từ trận địa Tiểu đoàn 75 bắn trúng đội hình địch. Cùng với súng các cỡ của quân ta từ hai bên bờ liên tiếp dội lửa xuống đoàn tàu của địch, làm một chiếc bốc cháy và đội hình của chúng trở nên rối loạn. Lúc này quân địch đóng ở Nhà máy sợi, Nhà máy chiếu, trại Carô đã nống ra phối hợp với lực lượng đổ bộ đường thuỷ. Cuộc chiến đấu càng quyết liệt, nhất là ở khu vực Bến Thóc, cần cẩu, Nhà máy chiếu. Quân địch từ Đò Quan rút dần về vị trí Nhà máy sợi nhưng đều bị quân ta chặn đánh kịch liệt. Địch từ phía Cửa Đông và nhà chủ Sói nống ra phản kích. Một xe thiết giáp bắn xối xả vào phía chùa Vọng Cung nhưng bị đạn sơn pháo của ta chặn lại, buộc phải quay lại. Khoảng 8 giờ, hai máy bay địch lao đến ném bom vào Cột Cờ và một số trận địa của ta.

Địch cho tàu lùi ra ngã ba sông Hồng, sông Đào, dùng máy bay và pháo trên tàu bắn vào các điểm ở hai bờ sông Đào nghi có bộ đội ta chiếm giữ. Quân dù cũng được lệnh phối hợp phản kích. Trận chiến giữa ta và địch diễn ra giằng co quyết liệt. Các chốt của hai tiểu đoàn đều chiến đấu dũng cảm, giữ vững trận địa. Đặc biệt trong trận đánh quân dù, bộ đội và tự vệ thành phố đã tiêu diệt nhiều tên địch, thu nhiều vũ khí. Nữ chiến sĩ cứu thương Nguyễn Thị Ca gặp địch khi dù vừa chạm tới đất đã dùng chai thuốc bất ngờ đập vào đầu tên giặc, sau đó dùng vỏ chai vỡ đâm chết nó, thu một súng tiểu liên. Trên toàn mặt trận, quân và dân ta vừa đánh quân tăng viện, vừa quét sạch địch tại vị trí Nhà máy tơ, dồn chúng vào Nhà máy sợi. Cho tới 5 giờ chiều ngày 6-1-1947 địch bị thiệt hại nặng nề, số còn lại phải tháo chạy vào các vị trí cố thủ của chúng.

Cuộc chiến đấu chống thuỷ, lục, không quân địch của quân dân Nam Định đã kết thúc thắng lợi. Địch không thực hiện được mục đích giải toả mà chỉ tăng viện được một đại đội cho khu vực đang bị bao vây, tinh thần chúng càng hoang mang hơn. Ta đã tiêu diệt gần 100 tên, bắn chìm một canô và thu nhiều vũ khí, quân trang quân dụng. Trong cuộc chiến đấu không cân sức này, lực lượng và phương tiện chiến đấu của ta cũng bị tiêu hao một phần. Tiểu đoàn trưởng Văn Phong (Tiểu đoàn 69) đã hy sinh anh dũng.

Đây là một trận đánh có quy mô lớn đầu tiên của địch ở đồng bằng Bắc Bộ, có sự phối hợp của cả ba binh chủng (thuỷ, lục, không quân) nhưng đã bị quân dân Nam Định anh dũng đánh bại. Chiến thắng to lớn này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Quốc hội và Chính phủ điện khen ngợi và quyết định tặng Trung đoàn 34 danh hiệu Trung đoàn tất thắng. Ngày 7-1-1947, tại Hội nghị cán bộ trung đoàn rút kinh nghiệm qua hai ngày chiến đấu chống viện binh của địch, các đồng chí Đỗ Mười, Hà Kế Tấn đã đọc điện và công bố quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị quân sự toàn quốc (họp từ ngày 12 đến ngày 16-1-1947) đã khen ngợi chiến công của quân dân Nam Định và nêu gương Anh dũng chống thuỷ, lục, không quân địch.

    Trên đà thắng lợi, Đảng bộ không ngừng giáo dục động viên nhân dân hăng hái tham gia mọi công tác kháng chiến cứu nước như đi dân công phục vụ tiền tuyến, tham gia dân quân tự vệ và bộ đội chiến đấu chống giặc, đóng góp mọi nhu cầu của kháng chiến. Tinh thần hăng hái của quần chúng đã cổ vũ quyết tâm của cả tiền tuyến lẫn hậu phương. Tết Đinh Hợi (1947), cái Tết kháng chiến đầu tiên nhân dân càng náo nức hơn. Hậu phương đã cung cấp khá đầy đủ mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần cho tiền tuyến, mang đậm hương vị của Tết cổ truyền dân tộc, gửi thư chúc mừng, cử nhiều đoàn cổ vũ động viên các chiến sĩ nơi chiến hào, uý lạo anh chị em thương binh tại các quân y viện.

          Quân Pháp bị ta bao vây chặt, chỉ còn cố thủ ở trại Carô, Nhà máy sợi C, Nhà băng, bị thiếu thốn mọi bề. Hằng ngày, máy bay của chúng phải đến tiếp tế cả lương khô và đạn dược. Riêng vị trí Nhà băng phải tiếp tế cả nước uống. Lực lượng của ta đã tận dụng mọi cơ hội để tiêu hao sinh lực địch.

          Trên chiến trường Bắc Bộ lúc này, quân địch được tăng viện nên đã đánh chiếm Quảng Yên (6-2-1947), Cẩm Giàng (10-2-1947)... Khi mặt trận Bình Trị Thiên bị vỡ, Trung đoàn Thủ đô đã rút ra ngoài (17-2-1947). Ban chỉ huy Mặt trận Nam Định triệu tập Hội nghị quân sự mở rộng tại thôn Vĩnh Trường phổ biến và bàn bạc về tình hình nhiệm vụ mới; nhận định địch sớm muộn cũng sẽ tập trung lực lượng giải vây Nam Định; quân và dân trong tỉnh sẵn sàng đánh địch nhưng phải giữ gìn lực lượng để kháng chiến lâu dài; quyết định phải xiết chặt vòng vây, tạo điều kiện tiêu hao địch, di chuyển các cơ quan về hậu phương, đẩy mạnh tiêu thổ kháng chiến ở thành phố. Khi địch tấn công giải vây, thì chủ động rút quân ra ngoài để bảo toàn lực lượng, chỉ để lại một lực lượng nhỏ làm nhiệm vụ Quyết tử quân hoạt động nghi binh trong thành phố và một bộ phận chặn đánh yểm hộ cho đại quân rút ra ngoài.

          Thực hiện chủ trương trên, quân dân Nam Định đã xiết chặt vòng vây, tiêu hao địch. Tiểu đoàn 75 tổ chức biên chế đại đội Quyết tử quân gồm 100 đồng chí, chủ yếu là tự vệ thành chọn sang, có một phần ba quân số là Vệ quốc đoàn. Ban chỉ huy đại đội gồm: đồng chí Đặng Văn Thiết (đại đội trưởng), đồng chí Nguyễn Ngọc Lân (đại đội phó), đồng chí Nguyễn Túc (chính trị viên). Nhân dân thành phố đã chuẩn bị 350 tấm bánh chưng, 350 tấm bánh mật, 100 kg gạo nếp rang và hàng trăm lưỡi tầm sét để đại đội Quyết tử quân sử dụng. Ban chỉ huy tiêu thổ kháng chiến được tăng cường. Nhân dân trong tỉnh, nhân dân các huyện Lý Nhân, Bình Lục, Thanh Liêm (Hà Nam) và cả một số xã thuộc huyện Thư Trì (Thái Bình) đã chuyển vào thành phố hàng vạn gánh rơm, rạ phục vụ cho công tác phá hoại sau khi đại quân rút khỏi thành phố.

          Mọi việc đang được gấp rút thực hiện thì ngày 6-3-1947, địch điều 1.500 quân, 120 xe cơ giới các loại cùng một đại đội thuỷ quân lục chiến có 2 tàu chiến, 4 ca nô và máy bay yểm trợ, theo đường sông Hồng về giải vây Nam Định.

          Trên đường hành quân, địch bị quân dân Hà Nam chặn đánh liên tục ngày đêm. Mãi tới 19 giờ ngày 9-3-1947, chúng mới tiến tới Lý Nhân (Hà Nam), cách thành phố Nam Định khoảng lO km hội quân thuỷ, lục ở đây để triển khai đội hình. Sáng sớm ngày 10-3-1947, địch chia thành ba mũi tiến về thành phố Nam Định:

          - Một mũi từ sông Hồng đổ lên đê Hữu Bị, theo đường 38.

   -  Mũi thứ hai, từ sông Hồng đổ bộ lên Tân Đệ theo đường 10 và một lực lượng vẫn ở lại trên tàu xuôi sông Đào.

   -  Mũi thứ ba, từ đê sông Hồng qua Đại Hoàng (Lý Nhân) sang Bảo Lộc, Như Thức, Phú Ốc (Mỹ Lộc) theo đường 21.

          Theo kế hoạch, quân ta chủ động rút ra ngoài để bảo toàn lực lượng. Sáng sớm ngày 10-3, đại đội Quyết tử quân đã nổ pháo nghi binh và sử dụng súng trường bắn tỉa tiêu diệt địch. Buổi trưa, tiếp tục nổ pháo từ đường Đinh Tiên Hoàng tới Vị Xuyên. Sau đó, các tổ phân tán theo dõi bám đánh trả quân địch. Đêm đến, Quyết tử quân vừa chủ động tập kích các vị trí đồn trú, vừa cuốn bùi nhùi vào pháo cho nổ ầm vang ở các nơi, uy hiếp quân giặc tạo điều kiện để quân ta rút lui.

          Mờ sáng ngày 10-3, mũi quân địch theo đường 38 xuống Viềng để đánh về thành phố. Khi địch đến làng Đệ Nhất, Lưu Phố (Lộc Hạ) bị đại đội 11 (Tiểu đoàn 75) chặn đánh, chúng phải lui về Viềng.

          Trưa ngày 10-3, quân địch từ Tân Đệ tiến vào đường 10. Khi chúng đánh vào thôn Trung Trang (Mỹ Tân, Mỹ Lộc) đã vấp phải mìn của trung đội tự vệ khu phố Hồ Văn Mịch do Trung đội trưởng Tạ Quang Khả và Chính trị viên Bùi Tư Nghĩa chỉ huy, làm một số tên tử trận. Địch phải lui quân về để chuyển hướng tiến công. Sáng sớm hôm sau (11-3) chúng tăng thêm lực lượng có xe bọc thép đi kèm, vòng từ phía Hữu Bị xuống làng Trung Trang. Đợi địch đến sát bãi mìn, Tiểu đội trưởng Tạ Quang Thuấn điểm hoả và hô xung phong, nhưng mìn không nổ. Quân ta xông lên đã bị hoả lực của địch chặn lại, một số chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, trong đó có Tạ Quang Thuấn. Trước tình thế bất lợi, các chiến sĩ vừa bắn chặn địch vừa rút vào trong làng. Một số anh chị em vượt ra khỏi làng, số còn lại do trung đội trưởng chỉ huy rút vào căn nhà xây hai tầng cố thủ. Địch bao vây căn nhà, các đồng chí rút lên gác hai, tiếp tục chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Trong trận chiến đấu này, bốn anh em ruột họ Tạ Quang (Khả, Hồng, Thuấn, Đức) và bảy chiến sĩ tự vệ hy sinh anh dũng.

          Như vậy, đến trưa ngày 10-3-1947, ở phía bắc và phía đông thành phố Nam Định, sau khi các đại đội của Tiểu đoàn 75 rút đi, địch mới tiến được vào nội thành. Tại hướng tây nam, Tiểu đoàn 69 phối hợp tổ chức đánh địch đổ bộ từ sông Đào lên Lò Lợn tiếp tục bắn tỉa quấy rối kìm chân địch trong thành phố và triển khai các trận địa ở các làng xã phía đưòng 10 thuộc Vụ Bản, chờ lệnh rút quân. Ngày 13-3, Tiểu đoàn 69 đã hoàn thành nhiệm vụ ra khỏi thành phố. Trong các ngày 12, 13, 14-3 các đơn vị của Trung đoàn 34, nhất là đại đội Quyết tử quân vừa đánh vừa lui, tiếp tục tiêu hao, tiêu diệt thêm một số tên địch. Ngày 15-3, Trung đoàn 34 và các lực lượng vũ trang nhân dân thành phố đã hoàn thành nhiệm vụ bao vây tiến công quân địch đồn trú ở thành phố Nam Định.

          Sau 86 ngày đêm liên tục chiến đấu, quân dân Nam Định đã kìm chế, giam chân một lực lượng lớn quân viễn chinh Pháp; đã giết và làm bị thương hơn 400 tên, trong đó có nhiều sĩ quan và binh lính Âu Phi, bắt sống 6 tên, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.

          Cùng với Thủ đô Hà Nội và một số thành phố, thị xã khác ở Bắc Bộ cuộc chiến đấu của quân dân Nam Định đã làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, góp phần cùng cả nước có thêm thời gian củng cố và xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

          Qua chiến đấu ác liệt, lực lượng ta vẫn được bảo toàn và ngày càng trưởng thành. Bộ đội địa phương, nhất là Trung đoàn 34 có thêm nhiều kinh nghiệm chiến đấu độc lập, hỗ trợ cho bộ đội địa phương và dân quân du kích đứng lên chủ động chiến đấu sau này.

          Có được những thắng lợi to lớn trên đây là do Đảng bộ đã thấm nhuần và vận dụng một cách sinh động đường lối cách mạng bạo lực của Đảng vào hoàn cảnh địa phương, luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ra sức xây dựng lực lượng về mọi mặt, đặc biệt là lực lượng vũ trang nhân dân, chủ động đối phó với mọi tình thế có thể xảy ra khi cuộc kháng chiến bùng nổ. Đảng bộ đã nhanh chóng chớp thòi cơ, kiên quyết tấn công địch; đồng thời phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước và truyền thống đấu tranh bất khuất của nhân dân trong tỉnh, hướng dẫn, tổ chức toàn dân xông lên giết giặc lập công, tạo nên khí thế hào hùng mở đầu cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện ở địa phương.

III. ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN CHỐNG ĐỊCH LẤN CHIẾM (TỪ 4-1947 ĐẾN 12-1947)

    Sau khi đã chiếm được mấy thành phố trống rỗng, thực dân Pháp tiếp tục đưa quân sang Đông Dương. Mục tiêu của chúng trong thời gian này là chiếm lấy những đưòng giao thông chính, lập vành đai bảo vệ thành phố - nơi sào huyệt của chúng, xúc tiến việc lập bộ máy bù nhìn tay sai, dụ dỗ nhân dân hồi cư, thực hiện chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.

          Ở Nam Định chúng đã chiếm đóng thành phố, gồm các vị trí Vườn Chay, chùa Phán Chương, Lò Lợn, trại Carô, nhà thương, nhà thờ Sanhtôma, Nhà máy sợi. Thực hiện âm mưu mở rộng chiếm đóng theo chiến thuật vết dầu loang, địch đã mở nhiều cuộc càn quét xung quanh thành phố để khủng bố nhân dân, phá cơ sở, gây tâm lý cầu an, dụ dỗ, thúc ép dân hồi cư và đẩy lực lượng ta ra ngoài. Bọn phản động địa phương, nhất là bọn đội lốt Thiên Chúa giáo và một số địa chủ cường hào ngóc đầu dậy, đứng ra lập tề dõng, bắt dân nộp tô cho địch xây đồn bốt. Từ tháng 4 đến tháng 6-1947, chúng đã đóng thêm một số vị trí ngoài thành phố như Đò Quan, Vạn Diệp (Nam Phong, Nam Trực), Đệ Nhất (Mỹ Trung), Bảo Long (Mỹ Hà), Lê Xá (Mỹ Thịnh) thuộc huyện Mỹ Lộc và Xuân Mai (Bình Lục, Hà Nam). Cũng trong thời gian này địch còn tổ chức một số trận đánh ra vùng tự do (giới hạn trong phạm vi 15 km) để khủng bố tinh thần nhân dân, cướp phá lương thực, trâu bò và để quét lực lượng của ta, nhưng đều bị ta đánh trả đích đáng, chúng buộc phải rút quân về như các trận chợ Dần (Vụ Bản) ngày 31-3-1947, trận Lê Xá (Mỹ Thịnh, Mỹ Lộc), núi Găm (Vụ Bản) ngày 2-5-1947.

Ụ cản xe cơ giới của địch ở xã Tứ Mỹ, huyện Ý Yên.
Ụ cản xe cơ giới của địch ở xã Tứ Mỹ, huyện Ý Yên.

          Để ngăn chặn các cuộc hành quân càn quét của giặc, quân và dân ta tích cực chặn đánh, gây cho chúng nhiều thiệt hại, trong đó có nhiều trận chiến đấu gây tiếng vang lớn như trận Đại Đê (Vụ Bản) ngày 1-6-1947, trận Quang Sán (Mỹ Lộc) tháng 7-1947.

          Trong trận Đại Đê, địch tập trung hai đại đội có pháo binh yểm trợ, từ phía đường 10, đường 12 chia nhiều mũi tiến công vào một thôn nhỏ Đại Đê (Đại An, Vụ Bản). Tại đây ta có một trung đội thuộc Đại đội 15 (Trung đoàn 34) cùng du kích và nhân dân đã đào đắp nhiều hầm hố, giao thông hào và gài mìn chiến đấu. Từ 8 giờ sáng ngày 1-6, địch nã pháo dồn dập, sau đó tổ chức nhiều đợt tiến công song đều bị đánh bật ra khỏi làng. Cuộc chiến đấu giằng co tới chiều. Đại đội 15 điều một trung đội có một khẩu trung liên đến chi viện. Được tăng cường lực lượng, ta bất ngờ tiến công địch rồi rút về căn cứ an toàn, diệt và làm bị thương hơn 100 tên địch. Mãi tới sáng hôm sau địch mới dám vào làng, lùa hơn 100 dân làng ra đình tra tấn và xả đạn giết chết 27 cụ cao tuổi nhất để trả thù.

          Tại Quang Sán, Đại đội 37 (tức Đại đội 15) do đồng chí Trần Văn Nghiêm làm đại đội trưởng, đồng chí Hoàng Cao là chính trị viên đã vận động 3 km từ Bảo Long (Mỹ Lộc) đến tập kích một trung đội địch từ thành phố Nam Định đang tiến vào làng. Quân ta chia làm ba mũi, bất ngờ tiến công vào đội hình địch, làm nhiều tên chết ngay tại chỗ. Địch bị đẩy ra khỏi làng. Ta truy kích, diệt 22 tên địch, bắt sống 5 tên, thu 3 trung liên, trên 20 súng trường, súng lục và 1 máy bộ đàm. Liên lạc viên Lê Văn Thực 13 tuổi đã dùng lựu đạn doạ và bắt sống một lính người Phi to lớn, thu một cácbin. Hành động dũng cảm đó đã được Hồ Chủ tịch gửi thư khen.

          Sau trận này, đồng chí Vương Thừa Vũ - Khu phó khu II đã xuống Trung đoàn nghe báo cáo diễn biến trận đánh và kết luận: "Đây là trận tiêu diệt chiến kiểu mẫu ở Bắc Bộ".

          Song song với hoạt động lấn chiếm, mở rộng vành đai thành phố, thực dân Pháp còn tiến hành lập bộ máy cai trị để đàn áp nhân dân. Bên cạnh Toà đại sứ chúng thành lập các toà Đốc lý, Sở cẩm, sở mật thám Liên bang (phụ trách bốn tỉnh Hà - Nam - Ninh - Thái), kho bạc, công chính. Chúng còn tăng cường tuyên truyền lôi kéo nhân dân hồi cư. Đến hết tháng 9-1947, số dân trong thành phố Nam Định đã có khoảng 1.000 người và 870 Hoa kiều. Ngày 11-9-1947, chúng mở lại chợ Rồng nhưng việc mua bán còn lẻ tẻ thưa thớt.

          Trước tình hình đó, căn cứ vào các nhiệm vụ cần kíp trước mắt về quân sự, chính trị, dân vận và công tác xây dựng Đảng do Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ hai (họp từ ngày 3 đến ngày 6-4-1947) đề ra, Tỉnh uỷ đã xác định trách nhiệm của toàn Đảng bộ và nhân dân Nam Định, nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thu nhiều thắng lợi hơn nữa. Nội dung cơ bản là:

- Phát triển chiến tranh du kích, kiềm chế tiêu hao địch, chống địch lấn chiếm, phục hồi cơ sở vùng địch hậu.

- Mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tranh thủ giáo dân, trấn áp bọn phản cách mạng.

- Ra sức xây dựng cơ quan quân sự và lực lượng vũ trang địa phương.

- Xây dựng hậu phương, quan tâm đến đời sống quần chúng, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện nền kinh tế tự cấp tự túc.

- Ra sức phát triển Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực công tác.

          Để thích ứng với hoàn cảnh chiến tranh và sự cần thiết cho chỉ đạo kháng chiến, thi hành chỉ thị của trên, Tỉnh uỷ Nam Định quyết định cắt năm xã: Mỹ Hào, Mỹ Toàn, Mỹ An, Mỹ Lộc, Mỹ Đồng của huyện Mỹ Lộc ở bên kia sông Đào sáp nhập vào huyện Nam Trực; tám xã phía tây bắc của huyện Mỹ Lộc sáp nhập vào huyện Vụ Bản. Số xã còn lại của huyện Mỹ Lộc sáp nhập với thành phố Nam Định và đổi tên là huyện Thành Mỹ; đồng thời hợp nhất uỷ ban kháng chiến với uỷ ban hành chính thành uỷ ban kháng chiến hành chính.

    Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, Trung đoàn 34 sau khi rút khỏi thành phố Nam Định để lại Đại đội 11- đại đội độc lập hoạt động vũ trang tuyên truyền gây cơ sở ở vùng tạm chiếm Mỹ Lộc, ngoại thành Nam Định. Tiếp đó tỉnh điều động Đại đội 77 và 36 về hoạt động ở vùng tạm chiếm huyện Nam Trực và Vụ Bản. Các đơn vị, đại đội độc lập đã dìu dắt lực lượng dân quân du kích từ chỗ chỉ làm nhiệm vụ canh gác bảo vệ xóm làng tiến tới tự động đánh địch. Do đó năm 1947 bộ đội chủ lực đánh 75 trận thì bộ đội địa phương đánh 24 trận, dân quân du kích đánh 40 trận. Tiêu biểu cho thành tích chiến đấu là đội du kích Mai Mỹ (Thành Mỹ) đã được Đại hội Đảng bộ tỉnh biểu dương.

          Chiến tranh du kích phát triển đã ngăn chặn một phần hoạt động của địch, tạo điều kiện cho cán bộ của ta đi vào tuyên truyền giáo dục quần chúng, phục hồi cơ sở. Nhân dân vùng tạm chiếm, trước sự khủng bố của giặc, mặc dầu có một bộ phận nhỏ dao động, hoang mang nhưng tuyệt đại bộ phận quần chúng rất tin tưởng vào kháng chiến, tin tưởng vào Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Nhiều người đã tích cực giúp đỡ, bảo vệ bộ đội, cán bộ hoạt động. Vì vậy, phong trào quần chúng ở những vùng địch chiếm đóng dần dần phục hồi. Năm 1947 ta đã phá được 15 ban tề. Trong một đêm tháng 10-1947, du kích xã Mỹ Tân (ngoại thành Nam Định) đã đột nhập bắt sống cả Ban hội tề của hai làng Phù Long và Hữu Long, thu 5 súng trường; tiếp đó lại đột nhập làng Trung Trang bắt sống tên phó lý và thuyết phục được lý trưởng làng Tân Đệ ra thú tội tại Công an quận 2.

Sử dụng bom ba càng tiêu diệt xe tăng địch
Sử dụng bom ba càng tiêu diệt xe tăng địch

          Nhân dân các vùng bị địch uy hiếp đều triệt phá cầu đường, đắp ụ ngăn cơ giới của địch, thực hiện khẩu hiệu Vườn không nhà trống khi địch tới. Các xã Liên Minh, Liên Phương, Lê Lợi, Bảo Xuyên, Cốc Thành, Thanh Côi (Vụ Bản) phá sập 6 cầu, đánh đổ 70 cột điện, bóc 3.500m đưòng sắt. Trên đường 12, đường 10, cứ cách 50m lại đắp một ụ đất để ngăn cản xe cơ giới của địch. Toàn tỉnh đã làm được 9.954 ụ đất, 35.768 hố hoả mai và hố tránh máy bay, 55 km giao thông hào. Việc rào làng kháng chiến cũng được tiến hành ở một số địa phương như Đại An, Phú Hào (Nam Trực); Dịch Diệp, Cát Trung (Trực Ninh); Thượng Đồng, An Lạc (Ý Yên); Lạc Châu, Hành Thiện (Xuân Trường); Quả Linh, Hào Kiệt (Vụ Bản); Nghĩa Lễ, Quang Sán, Nhân Nhuế, Tiểu Liêm (Thành Mỹ). Nhân dân trong tỉnh còn đào được 3.481 hầm bí mật.

          Để phát triển chiến tranh nhân dân, Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng lần thứ hai (4-1947) đã quyết định cấp tốc tiến hành việc tổ chức, huấn luyện, vũ trang và lãnh đạo dân quân, yêu cầu mỗi làng, mỗi địa phương phải phái ngay đồng chí hoặc cán bộ cứu quốc có năng lực đảm nhiệm việc phát triển dân quân. Thực hiện chủ trương của Đảng, tháng 5-1947, tỉnh Nam Định đã chuyển uỷ ban dân quân thành Tỉnh đội dân quân và tiến hành tổ chức các huyện đội, xã đội dân quân, chuyên trách xây dựng lực lượng vũ trang và nửa vũ trang địa phương. Do đó, các đội du kích tập trung huyện và dân quân du kích xã được tích cực xây dựng. Đến cuối năm 1947, lực lượng du kích tập trung đã phát triển được 525 người, xây dựng được hai đại đội thoát ly (C195 Nam Trực, C115 Mỹ Lộc), hai tiểu đội nữ binh. Tại sáu huyện phía nam tỉnh, mỗi huyện có một trung đội thường trực khoảng trên dưới 30 người. Tỉnh uỷ còn chú trọng chỉ đạo công tác huấn luyện và trang bị vũ khí cho lực lượng dân quân du kích, phát động phong trào Quân sự hoá toàn dân sâu rộng trong tỉnh.

          Để mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tập hợp mọi lực lượng nhân dân tham gia kháng chiến, Mặt trận Liên Việt được củng cố và phát triển, thu hút những người còn ở ngoài các tổ chức cứu quốc. Đồng thời, Tỉnh uỷ đã quyết định rút số cán bộ ngành, giới được trưng tập phục vụ nhiệm vụ quân sự trở về chăm lo củng cố và đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức quần chúng. Từ đó, các đoàn thể cứu quốc vừa được phát triển mạnh mẽ, vừa được kiện toàn hệ thống các Ban chấp hành chính thức các cấp.

          Một trong những thủ đoạn quen thuộc rất thâm độc, xảo quyệt của thực dân Pháp là chính sách chia để trị, dùng người bản xứ trị người bản xứ. Chúng đã triệt để lợi dụng lòng tin của giáo dân, hà hơi, tiếp sức cho bọn phản động trong giáo hội Thiên Chúa cùng những tên cường hào, phản động quấy rối hậu phương, gây mối hiềm khích trong nhân dân. Tháng 4-1947, chúng đã phái Hoàng Quỳnh - một trong những tên phản động khét tiếng đội lốt thầy tu từ Phát Diệm sang Bùi Chu để thực hiện âm mưu này. Hoàng Quỳnh đã đi rất nhiều xứ đạo để tập hợp lực lượng, tổ chức lớp huấn luyện Thanh niên công giáo diệt cộng, đào tạo bọn đầu sỏ phản động; dùng nhiều thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc, gây tâm lý sợ cộng sản phá đạo, ngăn cấm giáo dân tham gia các đoàn thể cứu quốc; bí mật lập các đảng phái phản động như Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt duy dân, Mặt trận liên tôn chống cộng; tổ chức bán Tín phiếu chống cộng trong giáo dân lấy tiền mua sắm vũ khí, thúc ép thanh niên tham gia lực lượng Tự vệ công giáo, vũ trang canh gác nhà xứ; dùng thần quyền giáo lý để mê hoặc giáo dân cuồng tín tham gia chống chính quyền địa phương.

    Hoạt động của bọn phản động ngày càng táo tợn hơn. Ngày 21-5-1947, chúng tổ chức cướp tiền của Ty thuế quan Văn Lý, rải truyền đơn kích động giáo dân nổi dậy chống thuế, chống Chính phủ ở La Châu (Giao Thuỷ), Thiên Thiện (Xuân Trường), Liễu Đề (Nghĩa Hưng). Tháng 7-1947, chúng kích động một số dân ở Xương Điền và Văn Lý (Hải Hậu) biểu tình chống thu thuế muối; tổ chức bắt cóc, thủ tiêu một số cán bộ cơ sở của ta; định lật đổ chính quyền cách mạng ở vùng Thiên Chúa giáo dọc theo ven biển từ Tiền Hải (Thái Bình) qua Nam Định sang Phát Diệm (Kim Sơn, Ninh Bình), chọn Nam Định làm nơi thí điểm thực hiện âm mưu đó. Ngày 31-8-1947, chúng đã bắt giáo dân ở Tang Điền, Xuân Hà (Hải Hậu) rào làng canh gác, công khai bắt giết hại cán bộ công an huyện Hải Hậu về công tác ở địa phương. Ngày 1-9- 1947, địch lại bắt và giết một số cán bộ của phái đoàn dân, chính huyện về giải quyết vụ phạm pháp trên. Ngay sau đó, một số cán bộ công an huyện, Huyện đội cùng với du kích vào tiếp tục giải quyết, chúng lại bắt giữ và thủ tiêu một số người; đồng thời thúc ép một số giáo dân ở tám xã xung quanh biểu tình, rào làng, lùng bắt cán bộ.

          Tại Đông Biên (Hải Hậu), bọn phản động đã giết một em bé liên lạc của công an. Ở Ngoại Đê (Nam Trực), chúng giết một bộ đội về phép và một chủ tịch xã. Ở xứ Gia Hoà và Báo Đáp chúng giết ông già 67 tuổi ngoan đạo rồi vu cho nhân dân bên lương giết, hòng chia rẽ đoàn kết lương giáo. Do chưa lường hết được tình hình phức tạp ở vùng Thiên Chúa giáo cũng như tính chất, mức độ của bọn phản động đội lốt tôn giáo nên công tác vận động tranh thủ giáo dân chặn âm mưu phá hoại của địch lúc đầu chưa được đặc biệt chú ý. Khi một số vụ xảy ra cũng chưa tập trung cao độ để ngăn chặn, giải quyết kịp thời, thường bị động đối phó. Mặt khác bản thân phong trào nơi Thiên Chúa giáo cũng quá non yếu, bọn phản động đầu sỏ đội lốt tôn giáo đã dựa vào đó để mê hoặc, kích động quần chúng giáo dân chống đối lại ta.

          Được sự chỉ đạo của Khu ủy, Tỉnh uỷ đã có chủ trương và biện pháp tích cực nhằm dập tắt bạo loạn. Ngày 5-9-1947, tỉnh đã điều động hai trung đội bộ đội địa phương và một số đại đội du kích cùng một số cán bộ vào Tang Điền, Xuân Hà làm nhiệm vụ tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của ta, vận động giáo dân, trấn áp bọn phản động với phương châm hết sức tránh gây tiếng nổ, không sa vào âm mưu khiêu khích của địch, giải tán các cuộc biểu tình, giải tán các cuộc tập trung canh gác, tranh thủ quần chúng, bắt những tên đầu sỏ gian ác; đồng thời đẩy mạnh hoạt động nghi binh ở vùng địch tạm chiếm, phá âm mưu phối hợp nội, ngoại tuyến của địch.

          Mặc dù bọn phản động kéo chuông thúc ép giáo dân chống lại, nhưng cán bộ và bộ đội vẫn kiên trì giải thích cho đồng bào thấy rõ âm mưu địch, đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ; đồng thời kiên quyết trừng trị một vài tên hung hãn nhất, tước khí giới của chúng, vạch trần bộ mặt gian ác, phản nước hại dân của bọn phản động trước nhân dân.

          Thành công lớn của ta trong việc đối phó với bọn phản động lợi dụng đạo Thiên Chúa là đã nhanh chóng dập tắt được vụ phiến loạn Tang Điền - Xuân Hà và không mắc mưu khiêu khích của địch, tranh thủ được sự đồng tình của giáo dân, trừng trị đích đáng bọn đầu sỏ gian ác. Các tổ chức phản động bị suy yếu, có bộ phận tan rã. Một số tên có tội ác bỏ chạy vào vùng địch tạm chiếm. Số còn lại nằm im không dám phá hoại trắng trợn như trước. Tình hình địa phương mau chóng ổn định, phong trào dần dần được phục hồi.

          Yêu cầu cuộc kháng chiến đòi hỏi phải động viên nhân lực, vật lực ngày càng nhiều. Tháng 6-1947, Tỉnh uỷ đã phát động phong trào thi đua sản xuất để ổn định đời sống nhân dân và góp phần nuôi quân đánh giặc. Khắp nơi trong tỉnh nông dân hăng hái tăng gia sản xuất và đạt được kết quả khả quan. Vụ chiêm năm 1947, tổng diện tích cấy được 238.000 mẫu, thu hoạch 110.000 tấn thóc, hơn vụ chiêm năm 1946 là 5000 tấn. Vụ mùa năm 1947 cũng cấy được 142.000 mẫu, sản lượng thu hoạch đạt khá. Việc trồng màu, rau và chăn nuôi lợn, gà tăng nhiều. Đặc biệt là sản xuất muối, trong 6 tháng đầu năm 1947 ta đã thu hoạch được 2.543,456 tấn và vận chuyển đi hơn 10 tấn muối, góp phần giải quyết yêu cầu về muối ăn cho nhân dân các nơi thuộc Thái Bình, Bạch Hạc (Việt Trì), Vân Đình, Đồng Quan (Hà Đông), Nho Quan (Ninh Bình).

          Việc thực hiện chính sách giảm tô của Đảng tuy có đề ra nhưng do lập trường giai cấp của cán bộ, đảng viên còn hữu khuynh, đoàn kết một chiều nên việc chấp hành thiếu triệt để. Nhiều địa chủ chưa giảm hoặc giảm chưa đúng thông tư đã quy định (ở Nghĩa Hưng trong số 4.346 mẫu địa chủ phát canh thu tô thì 3.425 mẫu chưa giảm). Chủ trương tản cư, hồi cư để kéo dài đến hết năm 1947 đã ảnh hưỏng tới công việc sản xuất và đời sống nhân dân. Đến cuối năm, Tỉnh uỷ có chủ trương uốn nắn sự lệch lạc trên. Các địa phương đã tổ chức cho nhân dân hồi cư kết hợp với việc xây dựng cơ sở vùng địch tạm chiếm. Mặt khác, ta đã vận động các huyện vùng tự do đỡ đầu các huyện vùng địch hậu để giúp đỡ giống vốn mau chóng ổn định đời sống cho đồng bào.

    Tính đến ngày toàn quốc kháng chiến, toàn tỉnh có 138 trường, gồm 208 lớp học (thành phố có 6 trường, 49 lớp). Khi kháng chiến bùng nổ, một số trường nội thành xung quanh thành phố phải đóng cửa, còn tất cả các trường ở nông thôn vẫn tiếp tục hoạt động. Riêng Trường trung học Nguyễn Khuyến ở nội thành được phân tán về Trà Lũ Bắc (Xuân Trường) và Thượng Đồng (Ý Yên). Ngành bình dân học vụ phát triển mạnh, có 1.170 lớp công cộng; 1.770 lớp học tại nhà, đội ngũ giáo viên đông tới 2.403 người, thu hút hơn 4 vạn học viên. Các giáo viên đã phát huy sáng kiến để khắc phục tình trạng thiếu đồ dùng giảng dạy như lấy vôi, gạch non, đất sét trộn lẫn làm phấn viết. Đến tháng 6-1947, tỉnh đã xoá nạn mù chữ cho 71.736 người.

          Nhằm nâng cao chất lượng của phong trào bình dân học vụ, Tỉnh uỷ chỉ đạo mở các lớp huấn luyện và tu nghiệp cho 621 giáo viên và đội ngũ kiểm soát viên của 9 huyện, in 9.000 cuốn Đề phòng Việt gian và 4.000 cuốn 26 điều tâm niệm cho dân và quân để làm sách dạy học trong các lớp bình dân học vụ.

          Để tăng cưòng sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực công tác, cuối tháng 12-1947, Tỉnh uỷ mở Hội nghị cán bộ nhằm mục đích chấn chỉnh công tác sau ba tháng kháng chiến và quyết định thành lập các Ban Huyện uỷ lâm thời thay cho Ban cán sự để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng ở các địa phương.

Lớp Bình dân học vụ.
Lớp Bình dân học vụ.

          Công tác phát triển Đảng cũng được đẩy mạnh, nhất là đợt phát triển đảng viên Lớp tháng Tám theo tinh thần Chỉ thị 21 ngày 29-7-1947 của Trung ương Đảng. Đối tượng kết nạp là những người hăng hái, tích cực, trung thực, tán thành chủ nghĩa cộng sản. Các Đảng bộ trong toàn tỉnh đã mở đợt tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa của đợt phát triển đảng viên mới, đồng thời đề ra biện pháp, kế hoạch tiến hành cụ thể như tuyên truyền, giới thiệu tiêu chuẩn, thủ tục xét duyệt và kết nạp đảng viên. Do đó, trong quý III-1947 toàn tỉnh đã kết nạp được 333 đảng viên gồm các thành phần (công nhân, nông dân và trí thức cách mạng), làm cho sự lãnh đạo của Đảng ở nông thôn và nhiều ngành thêm vững chắc. Tính đến cuối năm 1947 Đảng bộ Nam Định đã có 1.010 đảng viên.

Trong quá trình xây dựng và phát triển của mình, Đảng bộ Nam Định rất coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm xác lập những quan điểm, lập trường giai cấp cho cán bộ đảng viên; nêu cao tính tiền phong, đầu tàu, gương mẫu, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích dân tộc, vì quyền lợi của quần chúng nhân dân. Từ ngày 15 đến ngày 18-7-1947, Hội nghị Tỉnh uỷ Nam Định mở rộng đã học tập thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh Gửi các đồng chí Bắc Bộ (1-3-1947) có liên hệ và sửa chữa những sai lầm của bản thân.

          Tháng 12-1947, Đại hội đại biểu Đảng bộ Nam Định được tổ chức tại đình chợ Lương (Hải Anh, Hải Hậu), có 109 đại biểu. Đồng chí Trần Quốc Hoàn - Bí thư Khu uỷ II và đồng chí Trần Đăng Ninh - phụ trách Đặc uỷ đoàn của Chính phủ về công tác địa phương đã đến dự. Đại hội đã kiểm điểm đánh giá công tác lãnh đạo của Đảng bộ qua một năm kháng chiến; đề ra nhiệm vụ cho giai đoạn tới, bầu Ban Chấp hành Tỉnh uỷ mới gồm 11 đồng chí, đồng chí Hoàng Văn Tiến được bầu làm Bí thư.

          Từ tháng 11-1947 đến tháng 1-1948, Tỉnh uỷ Nam Định đã thành lập các ban chuyên môn gồm Ban Tổ chức Tỉnh uỷ (11-1947), Ban Dân vận (12-1947), Ban Kiểm soát (tức Ban kiểm tra Tỉnh uỷ, 1-1948), Ban Tuyên huấn (1-1948), Ban Công giáo vận (1-1948). Tỉnh uỷ còn thành lập tám đảng đoàn ở cơ quan chính quyền, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Việt Minh, Đảng Dân chủ, Liên hiệp Công đoàn, Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Việt Nam, Hội Liên Việt.

          Qua một năm kháng chiến, quân và dân trong tỉnh đã giành được những thắng lợi bước đầu về các mặt chiến đấu và xây dựng hậu phương, phát triển chiến tranh du kích, hình thành lực lượng vũ trang với ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích). Đảng bộ và nhân dân Nam Định đã tỏ rõ tinh thần anh dũng, không sợ hy sinh, nhanh chóng thích ứng với hoàn cảnh mới, lập được nhiều thành tích xuất sắc. Trái lại, về phía địch, Chính phủ Pháp đang gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, tài chính, lại bị nhân dân Pháp và dư luận nhân dân thế giới phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa do chúng gây ra đối với nhân dân Việt Nam.

          Đứng trước tình hình ngày càng bất lợi, thực dân Pháp thấy phải đẩy mạnh chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, nhằm mau chóng kết thúc cuộc chiến tranh. Ngày 7-10-1947, chúng tập trung toàn bộ lính Âu - Phi tinh nhuệ ở các chiến trường với đầy đủ vũ khí, phương tiện chiến tranh mở cuộc tiến công lên Việt Bắc, nhằm chụp cơ quan đầu não kháng chiến, cất vó lực lượng chủ lực của ta rồi lập ra một chính phủ bù nhìn làm tay sai cho chúng.

          Ngày 15-10-1947, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp, vạch rõ nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải làm cho địch thiệt hại nặng nề không gượng lại được, đánh mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ, giam chân địch tại mấy căn cứ chúng vừa chiếm.

          Thi hành chỉ thị của Trung ương Đảng, Đảng bộ Nam Định đã phát động quần chúng sôi nổi, hăng hái tham gia mọi hoạt động nhằm góp phần làm thất bại âm mưu của địch. Công tác phá hoại đường giao thông xung quanh nơi địch đóng quân và các đường chiến lược được tiến hành khẩn trương. Những đoạn đê quan trọng được đắp những con trạch dài để ngăn cản sự hoạt động của cơ giới địch. Trong vùng địch tạm chiếm, các hoạt động quấy rối, phục kích, quét tề trừ gian được đẩy mạnh. Đội danh dự trừ gian và Công an danh dự đã phối hợp với du kích bắt 15 tên chỉ điểm ngay trong vùng địch tạm chiếm, đồng thời đã phát hiện và trừng trị một tổ Việt gian chuyên dò xét cơ quan của ta ở Giao Thuỷ, Hải Hậu và Trực Ninh.

          Cùng với sự hoạt động quân sự, phong trào toàn dân ủng hộ các chiến sĩ ngoài mặt trận được dấy lên mạnh mẽ. Mỗi gia đình đều có Hũ gạo kháng chiến tiết kiệm một phần lương thực hằng ngày để góp phần nuôi quân. Phong trào Mùa đông binh sĩ thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia với khẩu hiệu Mỗi làng hai áo trấn thủ và hai chăn cho bộ đội. Toàn tỉnh đã thu được 1.000 chăn và quần áo, gần 3000 đồng ủng hộ quỹ Mùa đông binh sĩ. Thôn Ân Phú và Văn Giáo (Nghĩa Hưng) ủng hộ quỹ được 3.000 đồng, được Bác Hồ gửi thư khen. Những kết quả trên đã góp phần động viên các chiến sĩ ngoài mặt trận hăng hái giết giặc lập công.

          Sau 75 ngày đêm chiến đấu anh dũng và giành thắng lợi hết sức vẻ vang của quân dân ta ở Việt Bắc, cuộc tiến công đại quy mô của thực dân Pháp đã thất bại thảm hại. Ngày 22-12-1947, chúng phải rút quân khỏi Việt Bắc.

          Chiến thắng Việt Bắc là cái mốc kết thúc một năm kháng chiến đầy hy sinh gian khổ nhưng rất anh dũng của nhân dân ta. Nó đã làm phá sản hoàn toàn chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của địch, đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta tiến sang giai đoạn mới, giai đoạn phát triển chiến tranh du kích, chuẩn bị thế và lực để phản công.

IV. KIÊN TRÌ CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN (TỪ 1-1948 ĐẾN 10-1949)

    Trước những chuyển biến mới của cuộc kháng chiến, nhất là sau thắng lợi Việt Bắc, Trung ương Đảng tổ chức liên tiếp Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương mở rộng (1-1948), Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ tư (5-1948), lần thứ năm (8-1948), ra Nghị quyết về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, tài chính, văn hoá, xã hội cho giai đoạn mới.

          Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh cuộc kháng chiến, Trung ương Đảng chủ trương phải ra sức củng cố và phát triển Đảng thực sự có tính chất quần chúng mạnh mẽ và quyết định thành lập các Liên khu, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trước tình hình mới.

          Tháng 3-1948, Trung ương Đảng ra chỉ thị phát động phong trào Thi đua ái quốc nhằm động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nâng cao nhiệt tình cách mạng và tính sáng tạo, ra sức thi đua hoàn thành mọi nhiệm vụ trước mắt, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số vị trong Chính phủ kháng chiến ở Việt Bắc năm 1948.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số vị trong Chính phủ kháng chiến ở Việt Bắc năm 1948.

          Từ sau thất bại ở Việt Bắc, thực dân Pháp phải từ bỏ chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, đưa quân về càn quét bình định vùng đồng bằng. Ở Nam Định, chúng mở nhiều cuộc hành quân càn quét nhỏ nhằm phá cơ sở, cướp bóc của cải, phá hoại kinh tế của ta; ra sức củng cố ngụy quyền, tăng cường ngụy quân, mở rộng chiếm đóng theo kiểu vết dầu loang. Tháng 4-1948, địch chiếm đóng vị trí Báo Đáp, Gia Hoà, Vô Hoạn, Thượng Hữu, Quy Phú, Cổ Ra, Giáp Tư (Nam Trực), An Duyên, Lập Thành, Quả Linh, Trung Phu, Trình Xuyên (Vụ Bản). Đến tháng 10-1949, chúng đã chiếm được vùng nông thôn xung quanh thành phố với diện tích gần 200 km2, thiết lập một vành đai từ đường Vàng (Nam Trực) qua Trình Xuyên (Vụ Bản), Lê Xá, Tân Đệ (Mỹ Lộc) nhằm bảo vệ thành phố Nam Định. Song song với việc lấn chiếm lập vành đai, địch còn ra sức tuyển mộ ngụy quân làm lực lượng chiếm đóng, tích cực thực hiện chính sách dùng người Việt trị người Việt, xúc tiến lập tề, dõng để bình định khu vực chiếm đóng.

          Chúng còn bất ngờ tổ chức các cuộc hành quân thọc sâu ra vùng tự do gây hoang mang trong nhân dân, kích động bọn phản động địa phương chống lại lực lượng vũ trang của ta. Điển hình là cuộc hành quân ngày 25-4-1948, địch cho tàu chở một tiểu đoàn quân, đưa tên Tỉnh trưởng Nguyễn Lập Lễ từ thành phố Nam Định theo sông Đào ra sông Hồng, đổ bộ lên Ngô Đồng (Giao Thuỷ), xuyên qua các huyện Hải Hậu, Trực Ninh, Nghĩa Hưng rồi lại xuống tàu trở về thành phố.

          Trước tình hình trên, để đẩy mạnh mọi mặt hoạt động tiến lên trong giai đoạn mới, chấp hành Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh uỷ đã phát động một phong trào thi đua yêu nước sôi nổi trong Đảng bộ và quân dân trong toàn tỉnh. Các tổ chức Đảng từ chi bộ đến Đảng bộ hăng hái thi đua xây dựng chi bộ tự động công tác, khi địch chiếm đóng chi bộ phải hoạt động trong lòng địch hoặc khi chiến tranh ác liệt xảy ra chi bộ không liên lạc được với cấp trên. Nội dung xây dựng chi bộ tự động công tác gồm:

          Tự động đề ra chương trình, kế hoạch công tác.

          Tự động giải quyết được về đời sống, tương trợ lẫn nhau để hoạt động.

          Tự động mở lớp huấn luyện đảng viên và người cảm tình Đảng.

          Học tập thông suốt các nghị quyết, sửa đổi lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả công tác.

          Các cơ quan, đoàn thể thi đua kiện toàn củng cố cơ quan vững mạnh, đoàn kết nội bộ, liên hệ chặt chẽ và thương yêu giúp đỡ nhân dân, vận động nhân dân hăng hái gia nhập các đoàn thể cứu quốc, bộ đội du kích; tích cực rào làng kháng chiến, luyện tập quân sự và canh gác; tích cực lao động sản xuất, tiết kiệm, học tập và xây dựng đời sống mới.

          Phong trào thi đua thực tế đã đem lại sức sống mới cho kháng chiến. Qua các phong trào thi đua học tập, rèn luyện và chiến đấu, mỗi cán bộ, đảng viên đều có chuyển biến tích cực về tinh thần trách nhiệm, ý thức và tác phong sinh hoạt, lề lối làm việc. Nhiều sáng kiến và thành tích trong chiến đấu, công tác và lao động sản xuất được nảy nở, góp phần thúc đẩy phát triển mọi mặt công tác kháng chiến.

          Được sự dìu dắt của các Đại đội độc lập 36, 37 và Đội Tuyên truyền vũ trang, phong trào du kích chiến tranh phát triển mạnh đã hạn chế những hoạt động sục sạo của địch, ngăn chặn bọn phản động lập tề, lập dõng, lập vị trí. Trong nửa đầu năm 1948, dân quân du kích Nam Định đã đánh 306 trận, phối hợp với bộ đội đánh 56 trận, diệt 173 tên, làm bị thương 50 tên. Cùng với nhân dân vùng bị địch tạm chiếm tổ chức 10 cuộc tuyên truyền vũ trang, phá 15 ban tề, tạo điều kiện cho các cơ sở chính trị phục hồi và phát triển, Hội Liên Việt huyện Mỹ Lộc đã vận động được 114 người trong ban tề trở về với Tổ quốc, được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi.

    Hỗ trợ cho lực lượng vũ trang địa phương, bộ đội chủ lực đã mở nhiều trận tiến công các vị trí đạt nhiều kết quả như trận tập kích vị trí Man (Vụ Bản) vào đêm ngày 25-3, giết 9 tên địch; tiến công tất cả các vị trí địch tại Nam Trực đêm 10-8, làm chủ chiến trường suốt ngày 11-8, tiêu diệt nhiều địch, thu nhiều vũ khí, phá hoại đường sắt, cầu cống trên đường 21 và 55 làm gián đoạn giao thông địch. Cũng trong ngày 11-8-1948, Đại đội 77 đánh mìn trên đường 21 làm chết tên quan tư Têriu. Khi địch đem 400 quân nhảy dù xuống núi Bô (Ý Yên) ngày 10-12-1948 nhằm tiêu diệt chủ lực, phá kho xăng, công binh xưởng, chúng đã bị Tiểu đoàn 69 (thuộc Trung đoàn 34) cùng quân dân du kích chặn đánh, diệt trên 100 tên và buộc phải rút lui.

          Chiến tranh nhân dân phát triển ngày càng phong phú, nhất là qua hai kỳ thi đua luyện quân lập công. Trình độ chiến thuật, kỹ thuật của bộ đội địa phương và dân quân du kích được nâng cao. Ngoài những hoạt động quấy rối hằng ngày, du kích còn có các trận đánh mìn, phục kích ở Đỗ Xá (Nam Trực), Trình Xuyên, Tân Cốc (Vụ Bản), Ngã sáu Năng Tĩnh (nội thành Nam Định). Từ tháng 6 đến tháng 12-1948, dân quân du kích đã tổ chức đánh 110 trận, trong đó có 51 lần quấy rối, 21 lần phục kích, 19 trận đột kích, 19 trận diệt tề trừ gian; phối hợp với bộ đội chủ lực tấn công địch 18 trận.

Đội du kích Hồng Phong, huyện Nghĩa Hưng trong kháng chiến chống Pháp (1945 -1954)
Đội du kích Hồng Phong, huyện Nghĩa Hưng trong kháng chiến chống Pháp (1945 -1954)

          Đánh giá về phong trào dân quân du kích Nam Định, Bộ tư lệnh Liên khu III đã nhận xét: "Đặc biệt nhất có tỉnh Nam Định, tuy không có điều kiện đánh xe lửa... nhưng đứng về mặt hoạt động, Nam Định được xếp hạng nhì trong Liên khu, đặc biệt chiến thuật quấy rối là chiến thuật sở trường nhất của dân quân du kích Nam Định".

          Đầu năm 1949, Tỉnh uỷ mở Hội nghị tổng kết kinh nghiệm công tác vùng địch và đã đề ra chủ trương tích cực xây dựng lực lượng tự vệ và du kích, đẩy mạnh hoạt động vũ trang trong lòng địch, thực hiện khẩu hiệu bám lấy giặc đánh giặc, tích cực xây dựng cơ sở, xúc tiến bao vây vị trí, tiến tới đánh mạnh vào nội thành, đồng thời đề cao và giữ vững chính quyền ta.

          Tiếp theo đó, Hội nghị Tỉnh uỷ mở rộng tháng 3-1949 đã đề ra chủ trương chuyển hướng mọi mặt hoạt động theo yêu cầu tích cực cầm cự chuẩn bị tổng phản công. Hội nghị đại biểu toàn tỉnh lần thứ IV (7-1949) đã đề ra nhiệm vụ chú trọng củng cố Đảng hơn là phát triển; xây dựng Mặt trận, phát triển phong trào vùng địch tạm chiếm và vùng đồng bào theo đạo; dân chủ hoá và cách mạng hoá bộ máy chính quyền; kiện toàn du kích tập trung, phát triển du kích xã; phối hợp tranh đấu mọi mặt; động viên phong trào thi đua lập thành tích. Hội nghị đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 15 uỷ viên, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ gồm năm đồng chí do đồng chí Trần Xuân Bách làm Bí thư.

          Nhằm tăng cường sự chỉ đạo đẩy mạnh phong trào kháng chiến tiến lên một bước mới, Hội nghị Tỉnh uỷ mở rộng tháng 8-1949 đề ra cuộc vận động lớn nhằm tích cực động viên rèn luyện cán bộ, giáo dục đảng viên; đẩy mạnh phong trào cải cách hương thôn; xúc tiến việc thanh toán nạn mù chữ; phát động phong trào thi đua lập thành tích.

          Từ cuối năm 1947, một số huyện ở Nam Định đã tổ chức các nhóm Nghiên cứu chủ nghĩa Mác (do Ban Tuyên huấn phụ trách) để tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tuyên truyền đưòng lối, chủ trương kháng chiến của Đảng trong quần chúng. Trước tình hình nhiệm vụ mới, tháng 9- 1949 tỉnh và các huyện thành lập các Phân hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Một số xã tổ chức được các chi hội. Hoạt động của các phân, chi hội đến hết năm 1949 đã tổ chức được 45 cuộc nói chuyện cho 15.925 lượt người tới dự. Phân hội của tỉnh còn ra tờ báo chuyên đề tuyên truyền chủ nghĩa Mác và xuất bản hai cuốn sách Cộng sản là gì? và Nhiệm vụ của nông dân (mỗi cuốn in 2.000 bản). Việc phát hành sách, báo và những buổi nói chuyện rộng rãi của Hội đã sơ lược giới thiệu về chủ nghĩa Mác và tuyên truyền về vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

          Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ và để phối hợp với các chiến dịch trong toàn quốc, quân dân Nam Định đã hăng hái thi đua giết giặc lập công. Những hoạt động du kích như quấy rối, phục kích, đột kích các vị trí địch, đánh địa lôi trên các đường giao thông phát triển mạnh mẽ. Đồng thời quân dân ta mở nhiều trận tập kích, kết hợp với công tác vận động binh lính địch, tiêu diệt các vị trí An Thuần (Nam Trực, 2- 1949), Đồn Thự (Nam Trực, 6-1949), vị trí Dương A (Nam Trực, 6-1949) phục kích ở Dốc Mai, chợ Viềng (Mỹ Lộc, 20-8- 1949) diệt 50 tên, phá huỷ 2 xe tải, thu 1 đại liên, 1 trung liên. Đặc biệt đơn vị Đề Thám (Đội Tuyên truyền vũ trang của tỉnh) đã hai lần đánh địch ở nội thành Nam Định, gây ảnh hưởng lớn trong nhân dân thành phố.

    Phát huy những thắng lợi về quân sự, ta đẩy mạnh công tác phá tề, trừ gian, diệt chỉ điểm, phục hồi cơ sở trong vùng địch tạm chiếm. Nhờ đó, phong trào quần chúng phát triển thuận lợi, chính quyền ngày càng được đề cao trong nhân dân. Tuy nhiên, một số nơi còn mắc sai lầm, thiếu sót, đã trừng trị tràn lan hoặc để bộc lộ lực lượng nên bị địch khủng bố. Một số xã ở Mỹ Lộc, phong trào tương đối khá nhưng cán bộ có tư tưởng cầu an, sợ phá tề địch sẽ khủng bố nên không phát động quần chúng nổi dậy phá tề, trừ gian.

          Sau những hoạt động của ta, địch tập trung đối phó, chiếm đóng lại một số vị trí đã mất như Dương A, Đạo Nghĩa; cắm thêm vị trí Nhân Hoà (Nam Trực). Các vị trí vành đai đều được tăng cường quân số, củng cố công sự và liên tiếp tổ chức hành quân càn quét. Trong 6 tháng đầu năm 1949, chúng đã mở 96 cuộc, trong đó 63 cuộc càn quét ở địch hậu, 29 cuộc càn vùng uy hiếp và bốn lần đánh thọc ra vùng tự do nhằm phá cơ sở, cướp phá tài sản của nhân dân.

          Tình hình trên phản ảnh thế giằng co giữa ta và địch. Địch thọc sâu vùng tự do. Ta đánh mạnh vùng địch tạm chiếm, co hẹp vị trí chiếm đóng. Ta đánh địch chỗ này, chúng lại tấn công ta chỗ khác. Tuy nhiên, càng đánh ta càng có điều kiện thuận lợi hơn địch. Lực lượng vũ trang của ta với ba thứ quân, trải qua chiến đấu, qua các đợt luyện quân lập công đã trưởng thành về mọi mặt. Trong chiến đấu đã biết vận dụng phương châm tích cực tiến công tiêu diệt sinh lực địch, bảo toàn và phát triển lực lượng; đánh mạnh vào chỗ địch yếu và sơ hở, đẩy mạnh du kích chiến với vận động chiến. Song, ta còn thiếu sót là chưa phát huy hết vai trò tác dụng của các đại đội độc lập. Có đơn vị còn nặng nề về tư tưởng lập thành tích nên thường đánh xong một vài trận lại rút ra vùng tự do, chưa tích cực đi sâu làm nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền gây cơ sở, dìu dắt dân quân du kích đánh giặc.

          Về mặt xây dựng lực lượng có nhiều tiến bộ. Các đội dân quân du kích xã vừa tác chiến vừa xây dựng đã lớn lên nhanh chóng, có kinh nghiệm chiến đấu bảo vệ làng xóm. Đến tháng 10-1949, số du kích toàn tỉnh có tới hơn 45.000 người; so với cuối năm 1948 tăng gấp hơn hai lần. Phong trào tòng quân giết giặc cứu nước sôi nổi khắp nơi trong tỉnh. Số thanh niên ghi tên tòng quân trong năm 1949 lên tới gần 9000 người. Bộ đội địa phương từ 1 đại đội Đề Thám, đến tháng 3-1948 đã xây dựng thêm tiểu đoàn Duyên Hải. Cuối năm 1949 tất cả các huyện đã có 20 trung đội. Các cơ quan quân sự như tỉnh đội, huyện đội, xã đội đều được củng cố và kiện toàn, giúp cấp uỷ lãnh đạo công tác quân sự ngày càng đi vào nền nếp.

          Phong trào rào làng kháng chiến được triển khai ra nhiều địa phương trong tỉnh. Đến tháng 10-1949 đã xây dựng được 90 làng chiến đấu, trong đó nhân dân đã đào 17.l80m hào giao thông, 23.263 hố chiến đấu cá nhân, 1.841 hầm bí mật, đắp 9.470 ụ và dựng 249 cổng tre. Việc tiêu thổ kháng chiến tiếp tục được đẩy mạnh. Hầu hết các đường giao thông lớn, các cầu cống, thị trấn quan trọng đều tiến hành phá hoại; trên các mặt đê đều đắp ụ hoặc con trạch. Việc rào làng kháng chiến ở các cơ sở tuy có khác nhau về quy mô, hình thức, song thực chất đã thúc đẩy phong trào toàn dân đánh giặc lên một bước mới.

          Nổi bật nhất là làng chiến đấu Liên Minh (Vụ Bản). Nhân dân ở đây đã bỏ ra hàng chục ngàn ngày công, góp 17.870 cây tre, gỗ; đào trên 7.000m hầm giao thông nổi và ngầm nối liền các thôn Lương Kiệt, Hào Kiệt, Tam Hoà, Đồng Xuyên xây dựng thành một căn cứ vững chắc cạnh đường 10. Toàn xã có 11 trung đội du kích, vừa tích cực làm nòng cốt trong sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu. Ngay từ năm 1947, nhân dân Liên Minh đã nhiều lần phải chống địch càn phá. Trận có quy mô lớn là ngày 8-2-1949 (tức 28 tháng chạp), địch huy động 1.000 quân từ Nam Định kéo theo hầu hết quân ở bốt Trình Xuyên, có máy bay, pháo kích yểm trợ tiến công vào làng hòng triệt phá làng chiến đấu, tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta. Vì bất ngờ nên bộ đội chủ lực và Đại đội 47 của huyện không về kịp thời để chi viện. Song chính quyền, nhân dân và du kích ở đây vừa tổ chức dân tản cư, cất giấu lương thực, thực phẩm, vừa kiên cường, mưu trí đánh địch. Sau gần nửa ngày chiến đấu, dân quân xã Liên Minh đã tiêu diệt và làm bị thương hàng chục tên địch, sau đó rút lui an toàn. Địch vào làng chỉ là vườn không nhà trống, đốt cháy trên 100 nóc nhà rồi rút quân.

          Phong trào nhân dân và các đoàn thể cứu quốc xung phong đỡ đầu bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích phát triển đã thu nhiều kết quả. Tại Giao Thuỷ, trung bình mỗi xã, nhân dân nhận nuôi từ 3 đến 6 bộ đội. Trong sáu tháng năm 1949, nhân dân Ý Yên đã ủng hộ bộ đội 41.197 kg thóc. Trong vòng ba tháng vận động Hũ gạo nuôi quân, ở Vụ Bản đã có 5.722 hộ tham gia, thu được 12.757 kg gạo ủng hộ chiến sĩ. Nhân dân trong tỉnh còn hăng hái đóng góp vào quỹ kháng chiến, từ tháng 7-1948 đến tháng 10-1949 thu được 1.817.336 đồng và tham gia mua công phiếu kháng chiến, với số tiền là 6.287.000 đồng. Nhiều người còn xung phong mua công phiếu kháng chiến hạng D (loại 1 vạn đồng).

    Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 20-8-1949 về mua thóc gạo khao quân nhân ngày Quốc khánh 2-9-1949, toàn tỉnh đã bán 1.333,083 tấn gạo vượt mức trên 30% (mức khu giao là 1.000 tấn). Các huyện Nam Trực, Vụ Bản, Ý Yên, Trực Ninh bán vượt 50% mức tỉnh giao. Trong các công xưởng, công nhân hăng hái sửa chữa vũ khí và sản xuất được nhiều mìn, lựu đạn trang bị cho dân quân du kích và bộ đội đánh giặc. Thông qua những việc làm cụ thể đó, Đảng bộ đã giáo dục tinh thần yêu nước và động viên mọi người tham gia công tác kháng chiến một cách thiết thực.

          Đảng bộ rất chú trọng tới việc xây dựng hậu phương, chăm lo bồi dưỡng sức dân, tiếp tục thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ như thực hiện giảm tô, giảm tức, tạm giao, tạm cấp ruộng đất của Việt gian cho những hộ nông dân không có ruộng hoặc thiếu ruộng đất để cày cấy. Kỳ giảm tô vụ chiêm năm 1949, toàn tỉnh có 12.530 mẫu ruộng của địa chủ cho cấy tô thì 8.670 mẫu đã giảm đúng 25%; 2.707 mẫu mới giảm từ 15 đến 20%. Uỷ ban Kháng chiến hành chính tỉnh quyết định giao 3.000 mẫu ruộng đất của Vũ Ngọc Hoánh ở đồn điền Xuân Thuỷ cho nông dân cày cấy. Có nơi chi bộ còn lãnh đạo nông dân theo đạo Thiên Chúa đấu tranh buộc Nhà chung phải trả 113 mẫu ruộng đất công chiếm đoạt trái phép chia cho nông dân cày cấy. Chính quyền thực hiện chính sách ưu tiên, ưu đãi cho các gia đình quân nhân, thương binh, liệt sĩ được hưởng phần ruộng gấp đôi so với người khác.

          Từ phong trào thi đua ái quốc, Đảng bộ đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự cấp, tự túc. Hai vụ lúa chiêm, mùa năm 1948 đều khá tốt, bình quân mỗi mẫu thu hoạch 6 tạ một vụ, đưa tổng sản lượng năm 1948 lên 227.000 tấn thóc (năm 1947 là 222.000 tấn), về hoa màu và cây công nghiệp cũng cho thu hoạch khá, riêng cây bông phát triển mạnh. Năm 1947 có 420 mẫu bông, năm 1948 phát triển lên tới 2.947 mẫu, thu hoạch tăng từ 11 tấn bông năm 1947 lên 150 tấn bông năm 1948. Sản xuất muối được mở mang thêm, sản lượng muối tăng nhiều, đồng thời giá muối được nâng từ 35 đồng lên đến 75 đồng một gạt (24 kg) đã đáp ứng yêu cầu lớn cho kháng chiến.

          Công nghiệp và thủ công nghiệp cũng được đẩy mạnh như nghề kéo sợi, dệt vải, dệt lụa ở Vụ Bản, Hải Hậu, Nghĩa Hưng; nghề làm giấy, thuỷ tinh, thuộc da, đúc gang đồng, làm ngòi bút ở Ý Yên, Hải Hậu, Trực Ninh đã sản xuất được nhiều mặt hàng đáp ứng yêu cầu về đời sống, sinh hoạt và học tập của quần chúng, phục vụ cho sản xuất và chiến đấu.

          Lưu thông buôn bán ở vùng tự do vẫn sầm uất, nhộn nhịp, nhất là các chợ lớn ở Cổ Lễ, Cồn, Đông Biên. Các mặt hàng nội hoá chiếm đại bộ phận trên thị trường. Phong trào hợp tác hoá cũng phát triển. Đến tháng 10-1949, toàn tỉnh đã có 38 tổ chức hợp tác xã về sản xuất, tiêu thụ, tín dụng.

          Đi đôi với việc xây dựng nền kinh tế tự cấp, tự túc và khuyến khích hàng nội hoá, công tác bao vây kinh tế địch cũng được đẩy mạnh. Trong năm 1949 đã tịch thu 1.134 tấn hàng ngoại hoá các loại, trị giá trên 40 vạn đồng Đông Dương, đảm bảo cho hàng nội hoá phát triển, về tài chính, ta tích cực vận động nhân dân tiêu tiền Việt Nam bằng cách thu bớt số lượng đồng tiền Đông Dương trên thị trường.

          Thực hiện chủ trương phá kinh tế địch, anh chị em công nhân đã bằng mọi cách để phá hoại máy móc, nguyên vật liệu của địch. Đặc biệt, công nhân Nhà máy sợi trong dịp hưởng ứng tuần lễ tổng phá tề toàn Liên khu cuối tháng 12- 1948 đã phối hợp với lực lượng vũ trang tổ chức phá 76 máy dệt, 500 con suốt, 2 thùng vải (100 tấm), làm gãy 2 trục của 2 công tơ điện, đổ axít vào môtơ điện. Song, trong công tác phá hoại kinh tế địch, Huyện uỷ Thành Mỹ có chủ trương sai lầm là đã vận động 400 công nhân Nhà máy sợi bỏ việc ra vùng tự do để nhà máy phải ngừng sản xuất. Chủ trương này thất bại vì chủ nhà máy đã tuyển ngay thợ mới và tiếp tục sản xuất, ngược lại, đời sống của anh chị em bỏ việc gặp rất nhiều khó khăn, đồng thời ảnh hưởng không tốt tới việc xây dựng cơ sở của ta ở nhà máy cũng như ở nội thành. Tỉnh uỷ đã có chủ trương uốn nắn và đề ra những biện pháp để bảo vệ phong trào, phục hồi cơ sở và ổn định đời sống cho số anh chị em công nhân này.

          Trên mặt trận văn hoá, giáo dục, trong những năm 1948 - 1949 cũng đạt được những thành tích đáng kể. Phong trào bình dân học vụ tiếp tục phát triển mạnh. Đến tháng 10- 1949, toàn tỉnh đã có 250.908 người thoát nạn mù chữ. Các huyện Ý Yên, Vụ Bản, Hải Hậu đã thanh toán được 80% số người mù chữ. Nhiều lớp bình dân học vụ cũng được mở ra để tiếp tục nâng cao trình độ cho nhân dân. Nền giáo dục phổ thông được chú trọng chỉ đạo, tạo điều kiện phát triển. Toàn tỉnh có 341 trường tiểu học với 16.789 học sinh. Kỳ thi tốt nghiệp năm học 1948-1949 có 1.824 thí sinh (tăng so với năm học trước là 781) đã trúng tuyển 1.392 em. Ngoài trường Trung học Nguyễn Khuyến đã có thêm sáu trường tư thục: Nguyễn Trường Tộ, Nam Hải (Hải Hậu); Nội Hoàng, Trí Thành, Trung học Ý Yên (Ý Yên); Quang Trung (Xuân Trường). Đội ngũ giáo viên trung học có 24 giáo viên và số học sinh có 620 em. Kỳ thi tốt nghiệp năm học 1948-1949 có 45 thí sinh, trúng tuyển 31 em. Đảng bộ còn phát động đấu tranh chống văn hoá nô dịch đồi trụy của địch trong vùng tạm chiếm và đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng đời sống mới ở vùng chưa bị địch kiểm soát.

    Ngành y tế cũng tăng cường hoạt động khám và chữa bệnh cho nhân dân. Năm 1948, tỉnh đã thành lập các ban y tế xã, 8 trạm cứu thương, 30 nhà hộ sinh (đã đỡ cho 2.384 sản phụ). Các huyện đều có phòng phát thuốc, đã phát thuốc cho hàng vạn lượt người bệnh, hàng năm tiêm chủng đậu cho nhân dân. Bệnh viện dân y tỉnh đã phân chia làm hai phân viện để tiện phục vụ nhân dân. Phân viện ở phía bắc tỉnh gồm 1 bác sĩ, 6 y tá, 6 hộ lý; phân viện ở phía nam tỉnh gồm 1 y sĩ, 10 y tá, 10 hộ lý. Năm 1948 bệnh viện đã chữa cho 1.740 người bệnh.

          Ngành y tế đã mở nhiều lớp đào tạo cán bộ làm hộ sinh và vệ sinh phòng bệnh cho các cơ sở; tổ chức tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh; phát triển hội viên Hội Hồng thập tự...

          Trong điều kiện kháng chiến, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi thay theo đời sống mới. Những hủ tục như đồng bóng, bói toán, nghiện ngập được xoá bỏ. Lối sinh hoạt xa hoa lãng phí trong việc tổ chức đám cưới, đám ma, lễ hội đã giảm hẳn. Đặc biệt mối quan hệ tình làng nghĩa xóm ngày càng thân thương, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Tất cả đều hướng tới mục tiêu kháng chiến mau thắng lợi và tuyệt đối tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ.

          Những kết quả trên đây đã làm cho đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân trong tỉnh được cải thiện từng bước trong quá trình kháng chiến và kiến quốc, động viên mọi người hăng hái sản xuất và phục vụ chiến đấu.

          Chính quyền dân chủ nhân dân và Mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng được củng cố và phát triển trên nền tảng công nông liên minh vững chắc. Uy tín của chính quyền nhân dân và Mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng ăn sâu và lan rộng trong quần chúng nhân dân, kể cả trong vùng đồng bào theo đạo Thiên Chúa và vùng địch tạm chiếm. Nhiều xã ở vùng địch hậu cũng đã có cơ sở chính quyền tại khắp các thôn xóm. Tháng 10-1949, thành phố Nam Định và huyện Mỹ Lộc được tách thành hai đơn vị riêng cho phù hợp với thực tiễn địa phương lúc đó. Ở thành phố, Ban cán sự Đảng và Uỷ ban Kháng chiến hành chính được thành lập và có cơ sở chính quyền tại các khu phố. Huyện uỷ Mỹ Lộc và uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Mỹ Lộc cũng được thành lập.

          Trong hoàn cảnh chiến đấu gay go và phức tạp, Đảng bộ các cấp càng hết sức chú trọng tới công tác xây dựng Đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Chủ trương xây dựng Đảng thành một đảng quần chúng mạnh mẽ được Đảng bộ Nam Định tích cực thực hiện. Trong năm 1948, lực lượng Đảng phát triển khá nhanh, từ 1.010 đảng viên lên 5.304 đảng viên. Toàn tỉnh có 206 chi bộ Đảng (165 chi bộ xã). Số lượng uỷ viên các Ban Huyện uỷ cũng tăng gần gấp đôi so với năm 1947. Tỉnh uỷ đã mở 7 lớp huấn luyện cho 306 Huyện uỷ viên và cán bộ Việt Minh, 2 lớp cho 103 bí thư chi bộ và 32 lớp cho 1.186 đảng viên. Tính đến hết năm 1949, số lượng đảng viên toàn tỉnh đã lên tới 12.328 đồng chí, gồm phần lớn là công nhân, nông dân, tiểu tư sản đã được rèn luyện, thử thách trong chiến đấu và sản xuất. Đảng bộ đã xây dựng được cơ sở Đảng ở hầu hết các vùng nông thôn, trong các đơn vị bộ đội, trong các cơ quan, xí nghiệp và cả trong vùng sau lưng địch. Các cơ quan quân, dân, chính đều có đảng viên giữ vai trò chủ chốt.

          Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đào tạo cán bộ được chú trọng. Đảng bộ đã quán triệt sâu sắc các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong cán bộ, đảng viên và phổ biến rộng rãi cho quần chúng thông suốt; tiến hành cuộc vận động tổng kiểm thảo trong toàn Đảng bộ, qua đó giúp cấp uỷ hiểu thêm tình hình tư tưởng, tinh thần ý thức của đảng viên, nâng cao phê bình, tự phê bình. Trong năm 1949, Đảng bộ đã có 8.840 đồng chí đi học các lớp huấn luyện.

          Bên cạnh những nỗ lực cố gắng trong công tác xây dựng Đảng đáp ứng yêu cầu của kháng chiến, Đảng bộ cũng có những lệch lạc cần phải được khắc phục, nhất là trong việc phát triển Đảng, chưa nhấn mạnh phương hướng giai cấp và tiêu chuẩn kết nạp đảng viên. Nhiều địa phương thi đua phát triển Đảng một cách ồ ạt, sao cho đủ mức giao và thời gian quy định, do đó thiếu điều tra nghiên cứu, thiếu thận trọng cân nhắc khi xem xét đối tượng kết nạp, không đảm bảo tiêu chuẩn, thủ tục và việc củng cố chưa kịp với đà phát triển. Một số nơi còn kết nạp đảng viên theo kiểu cảm tình, nể nang, lôi kéo bạn bè, họ hàng vào Đảng; thậm chí kết nạp nhầm cả những phần tử xấu.

          Trước tình hình đó, Đảng bộ đã có biện pháp uốn nắn và chỉ đạo các cấp uỷ Đảng thực hiện kế hoạch Hai tháng củng cố Đảng của Liên khu uỷ đề ra. Đến tháng 9-1950, Trung ương Đảng có quyết định ngừng phát triển Đảng để tiến hành củng cố.

          Bốn năm, kể từ tháng 9-1945 đến tháng 10-1949, trong điều kiện hết sức khẩn trương vừa xây dựng và củng cố chính quyển dân chủ nhân dân, vừa tiến hành kháng chiến và xây dựng hậu phương vững mạnh, Đảng bộ, quân và dân Nam Định đã có những bước tiến vượt bậc. Lực lượng kháng chiến ngày càng phát triển và củng cố. Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện ngày càng được đẩy mạnh. Đảng bộ đã nắm vững phương châm chỉ đạo chiến tranh và vận dụng một cách linh hoạt trong điều kiện thực tế ở địa phương. Ở vùng địch tạm chiếm, chủ trương của Đảng bộ là duy trì, giữ vững cơ sở, phát động nhân dân đấu tranh kinh tế, chính trị với địch, tiến lên diệt tề trừ gian, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, phát động chiến tranh du kích, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Tại vùng tự do, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân xây dựng hậu phương toàn diện và vững chắc, làm hậu thuẫn thúc đẩy kháng chiến tiến lên. Đó là cơ sở có tính chất quyết định đối với cuộc kháng chiến lâu dài.

          Công tác xây dựng Đảng được chú trọng và đạt nhiều kết quả. Tuy còn có những thiếu sót khuyết điểm trong việc phát triển Đảng nhưng với đội ngũ đảng viên đông đảo trên các lĩnh vực công tác đã đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và trực tiếp của Đảng bộ đối với công cuộc kháng chiến và kiến quốc ở địa phương.

          Công việc chuẩn bị chống địch chiếm đóng Nam Định theo chỉ thị của Liên Khu uỷ được xúc tiến, nhưng do nhận thức chưa đầy đủ về chủ trương Tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, còn chủ quan, đánh giá quá thấp khả năng của địch nên công tác chỉ đạo chuẩn bị thiếu khẩn trương và cụ thể. Đó là một tồn tại, thiếu sót lớn, ảnh hưởng một phần tới phong trào sau này.

V. CHỐNG ĐỊCH MỞ RỘNG CHIẾM ĐÓNG TRÊN PHẠM VI TOÀN TỈNH, PHÁT TRIỂN CHIẾN TRANH DU KÍCH

    Từ sau Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 6 (1-1949) tới cuối năm 1949, cuộc kháng chiến của nhân dân ta có những bước phát triển mới. Thực hiện chủ trương Tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, quân dân ta đã mở nhiều chiến dịch liên tiếp, giải phóng nhiều vùng đất đai, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch. Phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Các căn cứ du kích và khu du kích hình thành và lan rộng trong vùng địch tạm chiếm, củng cố thêm thế trận chiến tranh nhân dân. Lực lượng vũ trang, bán vũ trang trưởng thành mau chóng. Hình thức đấu tranh của quần chúng và lực lượng vũ trang ngày càng phong phú và đa dạng, có hiệu quả.

         Thắng lợi của cách mạng Việt Nam cùng với những thắng lợi của quân dân Lào, Campuchia trên chiến trường Đông Dương đã đặt đội quân xâm lược Pháp trước nguy cơ thất bại mới. Chúng chẳng những thấy rõ mục tiêu chiến lược "Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" khó thực hiện được, mà ngay biện pháp chiến lược dùng hệ thống cứ điểm nhỏ và đội quân cơ động ứng chiến nhỏ để mở rộng lấn chiếm, bình định cũng bị uy hiếp nghiêm trọng.

         Lợi dụng tình thế Pháp ngày càng sa lầy, đế quốc Mỹ càng can thiệp sâu vào chiến tranh Việt Nam. Chúng thúc ép Pháp trao trả độc lập giả hiệu cho bù nhìn Bảo Đại; thành lập đội quân nguỵ do Mỹ trực tiếp trang bị, huấn luyện và đài thọ. Đế quốc Mỹ đang dần trở thành kẻ thù nguy hiểm trực tiếp của cách mạng Việt Nam.

         Để xoay chuyển tình thế, từ ngày 13-5-1949, Chính phủ Pháp cử tướng Rơve, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp cùng sáu nghị sĩ Quốc hội Pháp sang nghiên cứu tình hình Đông Dương và đặt ra một kế hoạch mới mang tên kế hoạch Rơve, với nội dung cơ bản là:

          Mở rộng phạm vi chiếm đóng ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, phong toả biên giới Việt - Trung.

          Tăng cường xây dựng quân nguỵ, dùng quân nguỵ làm nhiệm vụ chiếm đóng, tập trung quân Âu - Phi để xây dựng lực lượng cơ động càn quét, mở những đợt tiến công lớn.

          Củng cố và đề cao nguỵ quyền làm công cụ tiếp tục thực hiện chính sách "Dùng người Việt đánh người Việt".

         Kế hoạch Rơve của Pháp được sự đồng ý của Chính phủ Mỹ, xuất phát từ ý đồ can thiệp ngày càng sâu vào chiến trường Đông Dương của họ.

          Với viện trợ Mỹ và số quân được tăng viện, từ tháng 7- 1949 đến tháng 5-1950, Pháp mở liên tiếp tám chiến dịch đánh chiếm rộng ra đồng bằng và trung du Bắc Bộ.

          Trong âm mưu mở rộng phạm vi đánh chiếm đồng bằng Bắc Bộ, địch đã chọn sáu huyện phía nam Nam Định làm một trong những điểm đột phá, vì đây là vùng đất phì nhiêu, dân cư đông đúc, lại là vùng có đồng bào theo đạo Thiên Chúa nhiều nhất ở miền duyên hải Bắc Bộ, thuộc Giáo hội địa phận Bùi Chu, xung quanh có biển Đông, sông Hồng, sông Đào, sông Đáy bao bọc, thuận tiện cho địch dùng thuỷ quân lục chiến tiến công, chiếm đóng.

          Trung tuần tháng 10-1949, địch tập trung ba binh đoàn cơ động mở cuộc hành quân Ăngtơraxit, thực hiện kế hoạch Rơve.

          Sáng sớm ngày 16-10-1949, chúng cho 17 máy bay vận tải Đacôta và trên chục máy bay chiến đấu yểm hộ thả 300 quân dù cùng vũ khí xuống nghĩa địa Phát Diệm (thuộc tỉnh Ninh Bình).

          Ngày 18-10-1949, sau hai ngày đánh chiếm khu công giáo Phát Diệm, địch cho 6 tàu chiến, 2 ca nô chở 2 tiểu đoàn theo sông Hồng đổ quân lên Hạc Châu, Liêu Đông (Xuân Trường) đánh chiếm Hành Thiện, Bùi Chu (nơi có Toà giám mục Bùi Chu). Ngay lập tức, bọn phản động ở Chí Thiện (Xuân Thiện), Ngọc Cục, Lục Thuỷ (Xuân Tiên), Phú An, Trung Linh, Bùi Chu (Xuân Ngọc), được địch trang bị vũ khí, mở rộng chiếm đóng hình thành một vành đai an toàn bảo vệ sào huyệt Bùi Chu. Ngày 22-10, địch tiếp tục đánh chiếm

         Giao Hương (Giao Thuỷ), Phù Sa Thượng, Hải Lạng (Nghĩa Hưng), càn ra đông nam huyện Xuân Trường, đóng quân tại Ngô Đồng, khuyến khích, thúc ép bọn phản động nổi dậy, lập tề, dõng, bảo an, dân vệ. Chúng cấp phát vũ khí cho bọn phản động ở Phú Nhai, Quần Cống, Lạc Thành, Ân Phú (Xuân Trường)... để lùng sục truy diệt cán bộ, bộ đội và lực lượng kháng chiến của ta.

         Đánh chiếm xong các huyện Xuân Trường, Giao Thuỷ, Nghĩa Hưng, địch đóng một loạt vị trí dọc các triền sông lớn, cho tàu chiến, ca nô thường xuyên tuần tiễu, kiểm soát tuyến đường thuỷ trên sông Hồng, sông Đào, sông Ninh Cơ, nối liền thành phố Nam Định với thị trấn Phát Diệm (thuộc tỉnh Ninh Bình), tạo thành một vành đai an toàn bảo vệ sào huyệt của chúng ở Bùi Chu.

    Ngày 13-11, trên 300 quân từ Xuân Trường theo đường 21 đánh xuống Đông Biên (Hải Hậu). Cùng lúc, từ mặt biển một tiểu đoàn thủy quân lục chiến đổ bộ lên đánh chiếm Xương Điền, Văn Lý (Hải Hậu). Rồi từ những điểm chốt vừa chiếm được, theo chiến thuật vết dầu loang địch tiếp tục đánh chiếm các nơi khác.

         Chiếm xong Hải Hậu quân địch đánh tiếp Nghĩa Hưng từ hai hướng: Phát Diệm ngược lên, Hải Hậu tạt sang, chia cắt Nghĩa Hưng thành hai khu vực, chà đi sát lại miền trung và miền hạ huyện Nghĩa Hưng.

         Phán đoán lực lượng của ta sẽ dồn về Nam Trực, Trực Ninh, ngày 10-12 địch dốc toàn lực chia thành năm mũi tiến công hai huyện trên với ý đồ tiêu diệt toàn bộ quân ta. Từ ngày 10 đến ngày 12-12-1949 chúng càn quét nhiều lần và chia quân đánh các vị trí trên đất Nam Lợi, Nam Sơn, Trực Tuấn... đồng thời cho bọn tay chân đứng ra lập tề, tổ chức nguỵ quân.

         Kèm theo những hành động quân sự, địch còn có những thủ đoạn chính trị rất thâm độc, nhất là lợi dụng tôn giáo, cấu kết với bọn cầm đầu phản động trong giáo hội Thiên Chúa, để bọn này đắc lực tiếp tay cho chúng. Chúng nêu chiêu bài "chống cộng", "giải phóng đất thánh", giành "tự trị cho công giáo". Đi đôi với việc xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ ta, lúc đầu, chúng có hạn chế một phần hành động tàn bạo hòng lừa phỉnh nhân dân. Nhưng càng về sau địch càng tự lột mặt nạ giả nhân giả nghĩa: tiến hành đàn áp dã man những người dân yêu nước, hãm hiếp phụ nữ, giết người, cướp của, làm ô uế những nơi thờ cúng tôn nghiêm. Địch mới đóng ở một số điểm, bọn phản động ở một số nơi như: Ngưỡng Nhân, Sa Châu, Thức Hoá (Giao Thuỷ); Lạc Quần, An Phú, Thiên Thiện (Xuân Trường); Cồn Thoi (Hải Hậu); Hà Dương, Chương Nghĩa (Nghĩa Hưng); Thạch Bi (Nam Trực)... đã thừa cơ ngóc đầu dậy, kích động giáo dân chống lại kháng chiến. Chúng rào làng, bắt cán bộ, bộ đội, gây rối hậu phương, chuẩn bị đón giặc về. Được giặc Pháp cấp súng ống, một số tên phản động đội lốt thầy tu đã khoác áo nhà binh, đeo lon sĩ quan, chỉ huy vệ sĩ đi càn quét, triệt phá các cơ sở kháng chiến, cướp bóc các hương thôn, gây nên những tội ác hết sức dã man.

         Do ta chưa lường hết được mức độ đánh phá ác liệt của địch và phần nào còn chủ quan, cho là địch chỉ đánh thăm dò rồi rút nên chưa tích cực chủ động đề phòng chiếu đấu. Vì vậy, trong vòng chưa đầy hai tháng, địch đã đánh chiếm hầu hết các huyện phía nam tỉnh, dựng tề, đóng bốt để khống chế lực lượng kháng chiến của ta. Từ đây, nhân dân sáu huyện phía nam bước vào thời kỳ "hai năm, bốn tháng" đầy đau thương và uất hận.

          Trước tình hình mới, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Liên khu uỷ III về việc đề phòng địch đánh ra vùng tự do, mở rộng chiếm đóng Nam Định, Tỉnh uỷ Nam Định đã nghiên cứu và quán triệt tinh thần Chỉ thị đó. Trên cơ sở phân tích tình hình địa phương, Ban Tỉnh uỷ đã đề ra phương hướng tác chiến, phân công cán bộ xuống từng huyện để phổ biến Nghị quyết của Liên khu uỷ, của Tỉnh uỷ; bổ sung cán bộ cho các đơn vị vũ trang của tỉnh; khẩn trương kiện toàn lực lượng du kích tập trung; đề phòng âm mưu địch cấu kết với bọn phản động địa phương, nhất là bọn Việt gian, phản động đội lốt Thiên Chúa giáo. Các Đảng bộ cũng kịp thời uốn nắn những nhận thức không đúng của một bộ phận cán bộ, đảng viên như: chưa thấy hết tính chất khó khăn lâu dài của cuộc kháng chiến; còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Trung ương và quốc tế; tư tưởng chủ quan, nóng vội, thường nhấn mạnh tổng phản công mà chưa chú ý tới công tác tích cực chuẩn bị cho trước mắt và kháng chiến lâu dài.

          Trong quá trình địch đánh chiếm sáu huyện phía nam Nam Định, Đảng bộ đã lãnh đạo lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực ngoan cường đánh trả địch.

         Tại huyện Xuân Trường, đội du kích Ngọc Hồ, Trà Bắc đã phối hợp chặt chẽ với Đại đội 26 (bộ đội địa phương tỉnh) và bộ đội địa phương huyện đặt mìn ở các ngả đường, dùng lựu đạn, súng trường, lợi dụng đêm tối và địa bàn quen thuộc đánh lui nhiều đợt tiến công của địch vào làng Trà Bắc khiến bốn ngày sau chúng mới vào được làng.

         Tại Giao Thuỷ, Xuân Trường, Hải Hậu, bộ đội địa phương và du kích các xã cùng Tiểu đoàn 605 Vệ quốc đoàn liên tục bám sát, chặn đánh địch, diệt nhiều tên. Đại đội 91 phục kích địch ở chợ cồn diệt 30 tên. Bộ đội huyện Giao Thuỷ cùng du kích xã Giao Yến chống càn diệt 6 tên, bắt 2 tên và thu 5 súng trường.

         Ngày 7 và ngày 11-11, Đại đội 91 sau khi theo dõi nắm chắc quy luật hoạt động của địch trên tuyến sông Đào và sông Ninh Cơ đã tổ chức hai trận phục kích, đánh chìm một tàu chiến, một ca nô, bốn thuyền, diệt 200 tên. Đêm 12-11, bộ đội tỉnh tập kích địch ở Liễu Đề, Nghĩa Hưng diệt 30 tên, bắt 6 tên.

         Trong hai ngày 13 và 14-11 bộ đội địa phương và du kích Hải Hậu phối hợp với Tiểu đoàn 605 anh dũng chặn địch khi chúng đánh xuống Hải Hậu, diệt 237 tên, thu nhiều vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng.

    Từ ngày 16-10 đến ngày 25-11-1949, bộ đội địa phương Giao Thuỷ và dân quân du kích xã đã đánh 31 trận chặn địch hành quân, 25 trận quấy rối vị trí địch, trong đó có những trận đánh tiêu diệt như trận Hoành Nha (29-10), trận Hải Yến (12-11), Kiên Lâm (17-11).

         Hỗ trợ cho cuộc chiến đấu của quân dân sáu huyện phía nam, chi bộ công nhân Nhà máy sợi Nam Định đã tổ chức ném lựu đạn, phá vỡ cuộc mít tinh đón tên đầu sở nguỵ quyền Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí. Bộ đội chủ lực, tự vệ thành phố Nam Định tổ chức các trận tập kích và bắn pháo vào các vị trí địch ở nội thành trong hai đêm 8 và 9-11, gây cho địch nhiều thiệt hại, buộc chúng phải rút một bộ phận quân cơ động về bảo vệ thành phố.

         Sau hai tháng dũng cảm chiến đấu chống cuộc hành binh Ăngtơraxit, quân dân Nam Định đã giết và làm bị thương trên 1.000 tên địch, bắt sống 20 tên, thu và phá huỷ một số vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch.

         Tuy nhiên, do lực lượng quân sự của ta còn yếu, nên chưa có những trận đánh lớn, chưa ngăn chặn có hiệu quả các mũi tiến công của chúng. Công tác nghiên cứu nắm tình hình địch của ta còn thiếu sót nên đã đánh giá không đúng âm mưu, thủ đoạn và khả năng tác chiến của chúng; công việc chuẩn bị còn nhiều lúng túng và thiếu toàn diện. Khi nhận được Chỉ thị của Liên khu uỷ về chuẩn bị chiến dịch Thu - Đông, đề phòng địch đánh ra vùng tự do, các cấp lãnh đạo tỉnh, huyện, đều họp bàn kế hoạch thực hiện, song công việc chưa kịp triển khai tới cơ sở, kế hoạch tác chiến còn thiếu cụ thể, không được tập luyện trên thực địa thì địch đã bất ngờ đánh tới gây nên một số thiệt hại ở địa phương.

Giải phóng bốt Vô Tình, huyện Trực Ninh, năm 1952.
Giải phóng bốt Vô Tình, huyện Trực Ninh, năm 1952.

         Mặt khác, do nhận thức chưa đầy đủ về chủ trương chuẩn bị tổng phản công của Trung ương, trong chỉ đạo đã nảy sinh tư tưởng chủ quan nên việc chuẩn bị chống lấn chiếm thiếu tích cực và cụ thể. Hội nghị Tỉnh uỷ Nam Định tháng 10-1949 còn đề ra chương trình sửa chữa đường sá, cải tổ hương thôn, xây dựng đời sống mới là trọng tâm công tác ở vùng tự do. Thậm chí, khi địch bắt đầu đánh Xuân Trường ta vẫn cho là địch chỉ quấy rối vùng tự do chứ không có khả năng chiếm đóng. Đến khi địch đổ bộ, chia cắt, đánh chiếm từng khu vực, đường liên lạc từ tỉnh tới cơ sở bị đứt thì rơi vào tình trạng bị động ngay từ đầu. Ta cũng chưa lường hết âm mưu lợi dụng đạo Thiên Chúa của địch nên thiếu kế hoạch đối phó toàn diện, không tranh thủ được giáo dân mà cũng không kịp thời trấn áp, kìm chế bọn phản động khiêu khích và mất phương hướng, có nơi tiến hành trấn áp tràn lan như ở Phú Ninh, Tân Khai (Giao Thuỷ) tạo điều kiện cho địch lợi dụng phản tuyên truyền, càng làm cho tình hình thêm phức tạp, khó khăn.

         Trước tình hình đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng trước đây chủ quan nay chuyển sang hoang mang dao động. Phần lớn cơ quan tỉnh, huyện, xã, nhiều đơn vị bộ đội, khá đông cán bộ, đảng viên, du kích đều "bật" lên phía bắc tỉnh hoặc chạy sang Thái Bình. Nhiều kho muối, kho thóc khao quân, "thóc tổng phản công" của Nhà nước...; nhiều tài sản của nhân dân bị địch cướp phá, thiêu huỷ. Toàn bộ các huyện phía nam tỉnh trở thành vùng tạm chiếm của địch. Đầu tháng 1-1950, quân Pháp tập trung về thành phố Nam Định sửa soạn đánh Thái Bình. Một toán quân khác thọc ra chiếm núi Gôi, đóng ở Bất Di (Vụ Bản), mở rộng vùng tạm chiếm ra nhiều xã thuộc huyện Vụ Bản, phía bắc huyện Nghĩa Hưng, nhằm mở rộng vành đai phòng thủ thành phố, uy hiếp vùng tự do còn lại, chuẩn bị cho bước lấn chiếm sau này.

         Ở phía nam tỉnh, địch chỉ đóng lại hai đồn lính Âu - Phi làm chỗ dựa cho 173 vị trí vệ sĩ và dõng vũ trang. Chúng đã lập được một hệ thống nguỵ quyền, nguỵ quân để tiếp tục bình định vùng mới tạm chiếm. Ở mỗi thôn xã có trung đội "tự vệ công giáo". Các ban chỉ huy "tự vệ công giáo" phần lớn do các tu sĩ phản động nắm giữ, thực chất là một kiểu nguỵ quyền - quân sự - công giáo. Chúng lập ra "khu công giáo tự trị Bùi Chu" do tên trùm phản động Phạm Ngọc Chi trực tiếp điều khiển. Được Pháp trang bị vũ khí, chúng bắt thanh niên công giáo lập ra tiểu đoàn tự lực 2, có nhiệm vụ cơ động trong toàn miền.

         Nắm trong tay bộ máy đàn áp, bọn phản động ra sức càn quét, tàn sát rất dã man, hòng triệt phá tận gốc các cơ sở kháng chiến, xoá sạch ảnh hưởng của cách mạng, thực hiện công giáo hoá hoàn toàn địa bàn Bùi Chu. Một số tên phản động gian ác khoác áo thầy tu như Vũ Đức Khâm, Lương Huy Hân... đã trực tiếp chỉ huy những cuộc vây quét, tra tấn vô cùng man rợ những người bị bắt như: áp bàn là nung đỏ vào bụng, tẩm dầu vào chân đốt, buộc đá trôi sông... Riêng Vũ Đức Khâm đã giết 400 cán bộ, du kích và đồng bào ta, quẳng xác xuống Ngòi Cau (Hải Hậu). Nhiều nhà thờ như Lục Thuỷ, Kiên Lao, Phú Nhai, Bùi Chu... đã biến thành những nhà tù dã man của giặc, mỗi nơi giam từ 200 đến 400 người. Chúng tước bỏ mọi thành quả của cách mạng dân chủ, thu hồi phần công điền của phụ nữ được chia trong Cách mạng Tháng Tám; bắt nông dân phải hoàn lại cho địa chủ số tô đã giảm, thu lại các thứ thuế cách mạng đã bãi bỏ, tịch thu ruộng đất, tài sản của cán bộ, du kích. Chúng điên cuồng xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản, vu cáo Chính phủ ta phá đạo, khoét sâu thêm mối hận thù hiềm khích lương - giáo. Chúng thúc ép hàng ngàn giáo dân theo chúng cướp phá các làng của đồng bào bên lương; đốt phá chùa chiền, khủng bố dân lương, ép họ phải đi đạo. Tượng thần, tượng Phật bị chúng đập phá và thay vào đó là tượng Chúa; bắt sư nữ chùa Mới (Hải Hậu) phải bỏ áo cà sa khoác áo cô mụ. Chúng buộc cả thôn Thanh Khiết (Giao Thuỷ) phải theo đạo. Trong một thời gian ngắn "khu tự trị Bùi Chu" đã có 25.000 người bị bức phải tòng giáo. Chúng còn dùng roi vọt và súng đạn bắt hàng ngàn nông dân giáo và lương nai lưng đắp một con đường lớn từ dốc Trung Linh vào thẳng nhà thờ Phú Nhai. Cái tên "Đê ức" mà nhân dân đặt cho con đường ấy còn lưu truyền mãi mãi và là bằng chứng tố cáo tội ác tày trời của chúng.

    Ngay sau khi các huyện phía nam tỉnh bị tạm chiếm, các đảng phái phản động trước đây đã có cơ sở ở vùng này như Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt duy dân - lại ngóc đầu dậy câu kết với giặc. Nhưng nguy hiểm hơn là bọn Liên hiệp dân chúng, một đảng phái do bọn phản động Thiên Chúa giáo lập ra, có khuynh hướng thân Mỹ. Khi cải tổ nguỵ quyền, bọn phản động đội lốt tu sĩ vì quá lộ liễu phải rút vào bí mật thì bọn Liên hiệp dân chúng luồn vào mọi vị trí chủ chốt trong nguỵ quyền các cấp. Chúng tiến hành chiến tranh tâm lý, gây ảo tưởng là chúng có chỗ dựa vững chắc là đế quốc Mỹ. Súng đạn của bọn can thiệp Mỹ đã tăng thêm sức mạnh cho giặc Pháp sát hại nhân dân. Các loại văn hoá phẩm phản động của chúng lại tiếp tay cho giặc Pháp đầu độc thanh niên.

         Trước tình thế rất khó khăn và cấp bách đó, Tỉnh uỷ Nam Định đã họp mở rộng ở Tiêu Bảng (xã Yên Sơn, huyện Ý Yên) ra Nghị quyết ngày 6-1-1950 với ba nhiệm vụ:

          - Gấp rút phục hồi và phát triển các tổ chức Đảng, chính quyền và quần chúng trong vùng tạm chiếm (ở vùng mới tạm chiếm thì căn bản là phục hồi).

          - Chống phá âm mưu bình định vùng lấn chiếm của địch, đả phá những luận điệu phản tuyên truyền, chống tuyển mộ nguỵ binh, phá tề, phá các tổ chức phản động, tranh thủ giáo dân, phá âm mưu lợi dụng đạo Thiên Chúa giáo của địch.

          - Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, phát triển các lực lượng vũ trang, "quân sự hoá Đảng" tăng cưòng địch vận, đẩy mạnh đấu tranh ở vùng địch hậu, cải thiện đời sông nhân dân, đào tạo cán bộ cho tổng phản công. Các chi bộ Đảng phải tự động hoạt động; tập trung lãnh đạo các tổ chức Đảng và quần chúng.

Đối với nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ phục hồi cơ sở vùng mới bị địch tạm chiếm, hội nghị đề ra một số biện pháp cụ thể:

          - Lập ở mỗi huyện một trung đội tuyên truyền vũ trang, thành phần của đội này gồm các cán bộ quân dân chính Đảng và một số bộ đội địa phương. Nhiệm vụ của đội là đi sâu vào các thôn xóm tuyên truyền, giáo dục quần chúng, chắp nối và gây lại các cơ sở đã bị đứt liên lạc, trừng trị những tên tay sai của giặc có nhiều tội ác.

          - Nhân lúc quần chúng hồi cư đông, cán bộ, đảng viên, du kích phải trở về bám đất, bám dân. Trong ba tháng đảng viên phải về hết.

         Trong Hội nghị này, Tỉnh uỷ còn phổ biến kinh nghiệm công tác địch hậu, thảo luận kế hoạch thành lập những đội tuyên truyền vũ trang và tổ chức đưa cán bộ, đảng viên, du kích trở lại vùng tạm chiếm. Ngay sau đó, Nghị quyết Tỉnh uỷ ngày 6-1-1950 được truyền đạt sâu rộng tới các đảng viên.

         Cùng trong thời gian này, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Liên Xô (cũ) và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu lần lượt công nhận nước ta và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Vòng vây của chủ nghĩa đế quốc đối với nước ta đã bị đập tan. Thắng lợi về mặt ngoại giao cùng với thắng lợi quân sự dồn dập trên các chiến trường toàn quốc đã tiếp thêm niềm phấn khởi lạc quan cho Đảng bộ và quân dân trong tỉnh. Những điều kiện đó đã góp phần thuận lợi cho các Huyện uỷ, các chi bộ tiến hành đấu tranh tư tưởng mạnh mẽ từ trong Đảng ra ngoài quần chúng, đả phá tư tưởng hữu khuynh, cầu an; đề cao dũng khí chiến đấu, quyết tâm bám đất, bám dân và động viên cán bộ, đảng viên trở về vùng sau lưng địch. Đồng thời huấn luyện cho họ phương pháp công tác vùng địch hậu. Nhân lúc địch chiêu hồi dân chúng hồi cư, nguỵ quyền còn chưa ổn định, cán bộ, đảng viên, du kích đã lần lượt trở về. Một số đồng chí đã hy sinh ngay trên đường trở lại vùng địch hậu.

         Chỉ trong một thời gian ngắn, phần lớn huyện uỷ viên, 90% cán bộ, đảng viên vùng bị địch tạm chiếm đã lần lượt trở về. Muôn vàn khó khăn, gian khổ đã đến với những người cán bộ hoạt động địch hậu: đói khát, rét mướt, ăn hầm, ở bụi, bị bắt bớ, tra tấn, tù đày và hy sinh cũng không ít. Nhưng với tinh thần tất cả vì Đảng, vì dân, khó khăn không từ, gian nan không nản, các đồng chí đã kiên trì lặn lội giành giật với địch từng quần chúng, sống và hoạt động trong lòng địch, phần lớn đảng viên vẫn giữ vững tinh thần cách mạng. Chi bộ Liên Phương (Hải Hậu) mất liên lạc với cấp trên một thời gian vẫn sinh hoạt đều, lãnh đạo duy trì các tổ chức quần chúng và vạch chủ trương đối phó với tề. Chi bộ Việt Nhân (Trực Ninh) vừa phục hồi đã phát động quần chúng đấu tranh chống thuế. Đồng bào lương cũng như giáo ngày càng thấy rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, bộ mặt phản động của bọn tay sai, đồng thời hiểu rõ mục đích kháng chiến vì dân, do Đảng ta lãnh đạo, nên sẵn sàng chịu đựng hy sinh gian khổ, ủng hộ cách mạng. Vì vậy, khi cán bộ, đảng viên trở về, chỉ trong hai, ba tháng các cơ sở kháng chiến dần dần được khôi phục ở hầu hết các thôn lương. Đầu tiên là tổ chức Đảng và du kích. Nơi phục hồi nhanh là huyện Xuân Trường rồi đến Nam Trực, Trực Ninh, miền trung huyện Nghĩa Hưng. Khó khăn nhất là ở huyện Giao Thuỷ, do hậu quả những sai lầm của ta đối phó với bọn phản động khi địch mới đánh chiếm các huyện phía nam tỉnh.

    Tại thành phố Nam Định, Thành uỷ bố trí một số cán bộ xen với dân hồi cư trở về, xây dựng được chi bộ ở cả bốn khu phố. Trong Nhà máy sợi Nam Định, Chi bộ Hà Huy Tập đã phát triển số đảng viên lên tới 90 đồng chí, tổ chức công đoàn có tới 900 đoàn viên.

         Đây là lúc các huyện phía nam tỉnh tập trung vào nhiệm vụ khôi phục cơ sở thì ở vùng tạm chiếm cũ cơ sở chính trị đã ổn định và được củng cố, ta có điều kiện trấn áp nguỵ quyền, hạ uy thế của chúng trong nhân dân. Nguỵ quyền nhiều xã thuộc huyện Mỹ Lộc tê liệt dần. Chính quyền ta ở những vùng này tuy hoạt động bí mật nhưng có ảnh hưởng lớn, do đó ta đã có thể đẩy phong trào đấu tranh chính trị và quân sự lên bước mới. Huyện Nam Trực đã phát động quần chúng đấu tranh chống đi phu, chống nộp tre, gỗ làm bốt; không chịu chụp ảnh, làm giấy thông hành; kiện tề, kiện bảo an khi chúng đàn áp cướp bóc. Bộ đội địa phương huyện Mỹ Lộc đã đột nhập vị trí Tuộc (Phú Ốc) diệt địch, cướp súng phá vị trí địch.

Đại hội luyện quân lập công lần thứ hai của Trung đoàn Tất Thắng, tại huyện Hải Hậu, năm 1949
Đại hội luyện quân lập công lần thứ hai của Trung đoàn Tất Thắng, tại huyện Hải Hậu, năm 1949

         Thiết thực chuẩn bị cho tổng phản công và chống địch mở rộng đánh chiếm khu tự do còn lại, Tỉnh uỷ Nam Định đã chú ý củng cố và phát triển lực lượng vũ trang. Trước đây bộ đội địa phương tỉnh có hai đại đội (C26 và C91) nay đã xây dựng thêm một đại đội (C33). Ở ba huyện phía bắc tỉnh Nam Định và huyện Nam Trực, mỗi huyện đã phát triển từ một trung đội lên ba trung đội bộ đội địa phương. Lực lượng du kích tăng lên gấp rưỡi so với cuối năm 1949. Ở vùng tạm chiếm, hầu hết thôn lương đã có các đội du kích, thành phố Nam Định cũng xây dựng được ba đội tự vệ bí mật.

         Ngoài việc tăng cường và kiện toàn lực lượng vũ trang, các Đảng bộ từ huyện đến xã đã tiến hành một đợt kiểm điểm sâu sắc, chống tư tưởng cầu an, xác lập tinh thần quyết chiến. Các đội tuyên truyền vũ trang được thành lập và xác định hướng hoạt động chính là vùng Thiên Chúa giáo và nhiệm vụ chính là tuyên truyền giáo dục chính sách trong quần chúng giáo dân; cô lập bọn phản động, hạn chế việc cấu kết với giặc của chúng. Các huyện uỷ viên, cán bộ các ngành, giới, bộ đội địa phương được phân công về các xã để nắm chắc cơ sở và trực tiếp chỉ đạo chiến đấu khi địa bàn bị địch chia cắt.

         Sau Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng, Hội nghị cán bộ Liên khu uỷ III tháng 3-1950 đã đề ra hai nhiệm vụ lớn cho toàn Liên khu là: Tích cực chống âm mưu chiếm đóng đồng bằng của địch; gấp rút cùng nhân dân cả nước hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công. Ngày 1-5-1950, Tỉnh uỷ Nam Định đã mở Hội nghị cán bộ. Sau khi kiểm điểm những thắng lợi và những hạn chế trong việc thực hiện Nghị quyết ngày 6-1-1950 của Tỉnh uỷ, Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cơ bản cho toàn tỉnh là: "Phá cho bằng được âm mưu lợi dụng công giáo của giặc, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, tích cực hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị tổng phản công". Hội nghị thông qua Nghị quyết về những mặt công tác quan trọng: công tác giáo vận; xây dựng căn cứ vùng địch hậu; chuẩn bị chiến trường; xây dựng chi bộ lãnh đạo chiến tranh nhân dân.

         Nhiệm vụ xây dựng Đảng đã gắn liền việc xây dựng chi bộ cơ sở với nhiệm vụ chính trị trung tâm lúc đó là lãnh đạo chiến tranh nhân dân. Để tạo điều kiện phát triển, Nghị quyết xác định chi bộ phải hết sức quan tâm giữ vững khối đoàn kết toàn dân; phục hồi, củng cố các cấp chính quyền, các đơn vị vũ trang và nửa vũ trang, các tổ chức quần chúng; các chi bộ phải được kiện toàn về mặt tổ chức, nâng cao về mặt tư tưởng, phải được rèn luyện, thử thách qua đấu tranh.

         Hội nghị ngày 1-5-1950 còn nghiêm khắc phê phán những tư tưởng hữu khuynh, sợ địch như: chạy dài, không dám trở về hoạt động vùng địch, hoặc ra trình diện với giặc; không dám phá tề... Những biểu hiện của tư tưởng chủ quan, khinh địch như hoạt động lộ liễu, công khai, quan hệ bừa bãi với tề... những biểu hiện thoái hoá về mặt phẩm chất đạo đức như tham ô, hủ hoá, buôn lậu... Hội nghị đã chỉ ra biện pháp khắc phục trên cơ sở nâng cao ý thức Đảng, ý thức giai cấp, quan điểm quần chúng cho toàn Đảng bộ mà tiến hành đấu tranh tư tưỏng; phải nắm vững quyền lãnh đạo tập trung của các cấp uỷ Đảng mà khuyến khích tính chủ động của mỗi cá nhân; phải thực hiện dân chủ đi đôi với đề cao kỷ luật; biết động viên lòng quả cảm, hy sinh của cán bộ đảng viên, đồng thời coi trọng việc bảo vệ cán bộ.

         Ngày 16-1-1950, địch thọc ra Vụ Bản, đánh Bất Di, núi Gôi; càn quét lập tề ở Báng Già (Kim Thái), Côi Sơn (Thanh Côi), Phú Thứ (Tam Hào), Hổ Sơn, Đại Lại (Vĩnh Hào) thiết lập vành đai an toàn bảo vệ Gôi, một cao điểm đồng thời là trận địa pháo rất lợi hại.

         Ngày 29-4-1950, địch mở chiến dịch Đavít 2 từ thành phố Nam Định theo sông Đáy và đường 10, chiếm thị xã Ninh Bình, chốt một số vị trí mới trên đường 10 và sông Đáy. Từ các vị trí này, địch tung quân ra càn quét các thôn xóm xung quanh, luồn chỉ điểm vào vùng tự do để dò xét.

         Cùng ngày đánh chiếm thị xã Ninh Bình, tại Nam Định, địch mở cuộc hành quân Đavít 3 đánh chiếm ba huyện phía bắc tỉnh (chủ yếu là huyện Ý Yên). Từ thành phố Nam Định, chúng cho một cánh quân xuống đánh chiếm huyện Ý Yên. Một mũi khác gồm 1 tàu chiến, 2 ca nô chở quân ngược sông Đáy đổ bộ đánh chiếm Ứng Uy, Yên Khang (Yên Khánh, Ninh Bình) làm chỗ đứng chân rồi toả ra càn quét miền hạ Ý Yên, đóng một loạt vị trí tại cầu Tào, Yên Ninh - Cát Đằng, Yên Tiến - Đinh Tuần, Yên Bằng và Vĩnh Trị - Yên Trị, hình thành hành lang bảo vệ đường 10, nối liền thành phố Nam Định với thị xã Ninh Bình.

    Ngày 21-5, địch tập trung trên 2.000 quân cơ động mở cuộc càn lớn vào 4 xã Yên Hồng, Yên Hưng, Yên Phương, Yên Thọ (Ý Yên) lập vành đai sông Đáy, cắt đứt đường qua lại từ Nam Định sang vùng tự do Ninh Bình. Sau đó chúng đánh tiếp điểm cao núi Bô, núi Già và xây dựng sân bay dã chiến Hoàng Đan. Chỉ tính trong vòng hai tuần lễ, địch đã mở tới 30 trận càn lớn nhỏ, liên miên, hòng làm ta không kịp trở tay đối phó rồi "cất vó" quân ta ở khu vực giáp ranh các huyện Ý Yên, Vụ Bản, Thanh Liêm, Bình Lục. Trong cuộc hành quân này, địch tàn sát, đốt phá rất tàn bạo, hòng dùng thép và lửa để đè bẹp sức đề kháng của nhân dân ta.

Bác Hồ chỉ đạo chiến dịch biên giới 1950.
Bác Hồ chỉ đạo chiến dịch biên giới 1950.

         Mặc dù bị địch điên cuồng tiến công, đánh phá, nhân dân vùng đồng chiêm trũng Ý Yên - một vùng còn đói nghèo trong tỉnh, vốn có truyền thống chống ngoại xâm lâu đời đã sẵn sàng đứng lên cầm vũ khí đánh giặc. Có chủ trương đúng đắn, lại có sự chuẩn bị chu đáo, nên quân dân ta đã giành được chủ động ngay từ đầu, giáng cho địch những đòn choáng váng. Càn quét quanh đường 10, chúng đã vấp phải mìn của du kích Cao Bồ, Cầu Cổ, Tứ Mỹ. Sục sạo vào các làng ven đường 10, chúng bị quân dân các làng chiến đấu Đô Quan, Lũ Phong, Liên Minh... đánh trả quyết liệt. Địch còn vấp phải sự chống trả mạnh mẽ của các đại đội bộ đội địa phương 33, 91, 26 vừa được tỉnh tăng cưòng. Địch âm mưu chia cắt từng vùng, càn quét dứt điểm, bao vây lực lượng của ta, thì bộ đội, cán bộ vừa đánh vừa di chuyển không cho chúng bao vây; đồng thời vẫn bám sát cơ sở, giúp dân gặt hái, cất giấu tài sản, tiến hành tuyên truyền vũ trang, đẩy mạnh chiến tranh du kích. Nhiều trận chống càn rất quyết liệt, tiêu biểu là các trận ở xã Cộng Hoà, Bảo Đài, Thọ Bằng, nhất là ở Vũ Dương. Để phá âm mưu lấn chiếm của địch, bảo vệ quê hương, chi bộ đảng và nhân dân xã Vũ Dương đã huy động gần 10 vạn cây tre, tạo ra hàng chục ngàn mét hào và hầm giao thông, dựa vào địa hình, địa vật sẵn có xây dựng một làng chiến đấu kiên cố. Ngày 17-6-1950, địch đưa một tiểu đoàn về càn quét. Lực lượng cơ sở chỉ có một tiểu đội du kích tập trung phối hợp với một bộ phận nhỏ bộ đội địa phương và một số nhân dân, đã chiến đấu rất dũng cảm. Lừa cho địch vào từng ngõ ống, chỉ với mìn, lựu đạn, gạch đá, chai lọ... quân dân Vũ Dương đã giết và làm bị thương hơn 100 tên, thu một số vũ khí, trong đó có một đại liên, hai trung liên. Đó là một thắng lợi có sức cổ vũ to lớn, củng cố niềm tin của nhân dân vào đường lối kháng chiến của Đảng.

         Qua hai tháng trực tiếp đối đầu với giặc Pháp, quân dân Ý Yên đã dày dạn trong chiến đấu. Lúc đầu nhiều người còn sợ địch, sau đã dám đánh địch, góp phần làm phong trào kháng chiến toàn dân phát triển nhanh chóng. Trong mọi hoàn cảnh gay go, ác liệt, tổ chức Đảng các cấp vẫn bám dân, bám đất... Lãnh đạo chiến đấu bảo vệ dân, bảo vệ sản xuất, bảo toàn được lực lượng vũ trang; đồng thời thu hoạch tốt vụ chiêm, giữ gìn được phong trào và cơ sở mọi mặt. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng quá chênh lệch, ta chỉ có thể làm chậm bước tiến, chứ chưa thể chặn đứng được chúng. Mặt khác, địch lại càn quét đúng lúc lúa chiêm chín rộ, một sốquần chúng có phần hoang mang muốn tạm lập tề để có điều kiện thu hoạch. Do đó, địch đã dựng được nguỵ quyền ở các thôn chúng vừa càn quét; đóng lại vị trí Âu - Phi và hai vị trí vệ sĩ. Ngày 27-6-1950, địch rút hết quân ứng chiến đi càn nơi khác. Lực lượng lưu động ở địa phương chỉ còn lại một đại đội hầu hết là nguỵ binh. Tổng số quân chiếm đóng chỉ còn ba, bốn trăm. Mùa mưa đến, đồng nước mênh mông, hoạt động của địch bị hạn chế một phần.

         Sau khi chiếm được phía nam Nam Định và một phần tỉnh Ninh Bình, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp tập trung một lực lượng lớn quân cơ động hầu hết là lính Âu - Phi về Phú Xuyên, Vân Đình (Hà Đông), thị xã Ninh Bình và thành phố Nam Định, chuẩn bị mở cuộc hành binh lớn mang tên Phuđơrơ đánh chiếm tỉnh Hà Nam, tiếp tục thực hiện âm mưu đánh chiếm đồng bằng Bắc Bộ của tướng Rơve. Gần hai tháng đánh chiếm Hà Nam, địch chỉ chiếm được các thị xã, thị trấn gần đường giao thông lớn và một số cao điểm. Còn những địa bàn nằm xa đường giao thông, nằm sâu trong nội địa ven sông Hồng vẫn thuộc vùng tự do của quân dân ta.

         Trong vòng 10 tháng kể từ khi cuộc hành binh Ăngtơraxit (16-10-1949) đến kết thúc cuộc hành binh Phuđơrơ (7-1950), Bộ Chỉ huy Pháp đã mở ba cuộc tiến công gồm hàng trăm trận càn lớn nhỏ, thọc sâu đánh phá, mở rộng vùng kiểm soát ra toàn tỉnh Nam Định. Với ưu thế về binh khí kỹ thuật và thủ đoạn chiến tranh nhà nghề, giặc Pháp đã tạm thòi giành được một số kết quả, thiết lập được một hệ thống chính quyền bù nhìn tay sai ở những nơi chúng chiếm đóng.

         Tháng 7-1950, giữa lúc quân địch ra sức càn quét bình định, củng cố các vùng đã chiếm được trên địa bàn Nam Định, thì Liên khu uỷ III ra Chỉ thị mở cuộc vận động "Lương-giáo đoàn kết thi đua giết giặc" nhằm đẩy mạnh công tác tôn giáo vận, phá nguỵ quân nguỵ quyền, chống âm mưu lợi dụng Thiên Chúa giáo của giặc.

         Thực hiện Chỉ thị của Liên khu uỷ III, Tỉnh uỷ Nam Định đề ra cuộc vận động trong vòng hai tháng "thi đua giết giặc lập công", với khẩu hiệu: "Xã nào cũng đánh giặc, giặc đi đến đâu bị đánh đến đấy" nhằm đẩy mạnh phong trào kháng chiến trong toàn tỉnh, phục hồi cơ sở, phát triển chiến tranh nhân dân, phá âm mưu chia rẽ của địch.

   Sau hai tháng liên tục chiến đấu, quân và dân ta đã xoay chuyển tình thế, từ chỗ bị tiến công sang phản công quân địch, phá vỡ từng mảng lớn nguỵ quân, nguỵ quyền, phục hồi cơ sở, tạo ra một khí thế đấu tranh mới trong nhân dân. Cùng với thắng lợi quân sự, bước đầu ta đã làm phá sản âm mưu chia rẽ lương-giáo của địch, củng cố thêm khối đoàn kết toàn dân.

Chiến đấu chống địch càn quét tại xã Xuân An, huyện Xuân Trường, năm 1952.
Chiến đấu chống địch càn quét tại xã Xuân An, huyện Xuân Trường, năm 1952.

  Trong đợt hoạt động: "Lương-giáo đoàn kết", "Thi đua giết giặc" do Tỉnh uỷ Nam Định phát động, Huyện uỷ Ý Yên đã phát huy thắng lợi, động viên toàn Đảng bộ và nhân dân xây dựng và mở rộng khu du kích trong lòng địch.

         Bộ đội địa phương huyện trước đây phân tán để dìu dắt dân quân, du kích, nay được tập trung làm mũi nhọn xung kích. Không khí thi đua đánh giặc, diệt tề bừng bừng khắp nơi trong huyện. Chỉ một thời gian ngắn, hầu hết các ban tề địch vừa lập đã bị phá tan, hai vị trí vệ sĩ bị tiêu diệt. Các vị trí Âu - Phi bị bao vây chặt chẽ. Địch bị dồn vào thế khốn quẫn, tinh thần hoang mang dao động.

         Trên đà thắng lợi, quần chúng nhân dân không những tham gia ủng hộ bộ đội, du kích về mọi mặt mà còn hăng hái tự động đánh giặc. Ở Văn Xá, chú bé chăn vịt cũng đuổi bắt nguỵ binh. Tại thôn Nguyễn, cụ già và phụ nữ cũng vác gậy đánh giặc, còn ở Tứ Mỹ có em bé liên lạc một mình dùng lựu đạn phục kích địch trên đường 10 và ở Dưỡng Chính, nhân dân tự gài mìn, đào hố bẫy giặc...

         Thông qua lãnh đạo chiến đấu, Đảng bộ Ý Yên thực sự là hạt nhân của phong trào chiến tranh nhân dân. Nhiều đảng viên có tinh thần hy sinh chiến đấu được khen thưởng đề bạt. Trên 200 quần chúng được thử thách trong chiến đấu đã được kết nạp vào Đảng. Các tổ chức quần chúng, khi địch càn quét tạm ngừng hoạt động, nay trở lại sinh hoạt và phát triển thêm hàng ngàn hội viên.

         Những thắng lợi to lớn trên đây là do Đảng bộ Ý Yên đã nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương của Tỉnh uỷ trong việc chuẩn bị mọi mặt chống địch lấn chiếm, chủ động đối phó với địch ngay từ đầu. Đảng bộ Ý Yên còn hết sức quan tâm đến công tác giáo dục tư tưởng, khơi gợi lòng yêu nước căm thù giặc, phát động được ý chí quyết tâm giết giặc giữ làng cho đảng viên và quần chúng và kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng hữu khuynh, cầu an. Trong chỉ đạo chiến đấu, Đảng bộ Ý Yên đã vận dụng đúng đắn đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, phát huy nhiều sáng tạo, tận dụng được mọi khả năng của quần chúng, phát động được toàn dân hăng hái cầm vũ khí đánh giặc. Ngoài ra, Đảng bộ Ý Yên còn biết chỉ đạo toàn diện các mặt hoạt động khác, phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm lúc đó là chiến đấu chống giặc và lấy nhiệm vụ trung tâm là hòn đá thử vàng để củng cố phát triển tổ chức, làm cho trong chiến đấu lực lượng của ta ít tiêu hao mà còn phát triển các mặt hoạt động phong phú hơn lên.

         Thắng lợi của Đảng bộ và nhân dân Ý Yên đã có sức cổ vũ to lớn cho quân dân toàn tỉnh, củng cố thêm niềm tin cho mọi người vào đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, góp thêm những kinh nghiệm tốt về chiến tranh nhân dân trong toàn Liên khu.

         Ở các địa phương khác trong tỉnh, giữa hàng trăm đồn bốt giặc dày đặc, tổ chức Đảng ở các cấp đã tổ chức được nhiều cuộc tuyên truyền vũ trang, mít tinh, tuần hành, thị uy, có cuộc tới hàng nghìn người tham dự. Trong khi đó, bộ đội, du kích đã phối hợp bao vây, quấy rối nhiều vị trí địch, làm chúng hoảng hốt mất ăn, mất ngủ và tiêu diệt được hàng chục đồn vệ sĩ. Các đường giao thông lớn trong tỉnh như đường 10, 12, 21, 38, 56, 57... đều bị phá nghiêm trọng, xe cơ giới địch không hoạt động được. Nhiều trận đánh địa lôi diệt địch, đánh quân địch đi càn, đi tiếp viện đã diễn ra khắp nơi. Huyện Nghĩa Hưng, nơi phong trào trước đây kém đã đánh 40 trận phục kích chống càn trong tháng "Thi đua giết giặc".

         Nhiều huyện đã xây dựng những làng chiến đấu kiên cố như An Cổ (Mỹ Lộc), Đào Thôn, Bàn Kết (Vụ Bản), Quần Lạc (Trực Ninh). Đặc biệt khu làng chiến đấu liên hoàn Bắc Sơn - Đồng Nguyên (Nam Trực - Nghĩa Hưng) đã trở thành khu căn cứ của huyện Nam Trực, đứng vững trong lòng địch suốt tám tháng trời ỏ mối giao thông giữa hai đầu nam, bắc tỉnh; là mũi nhọn lợi hại chặn hai con đường thuỷ bộ của địch (sông Đào và đường 55) và mở tuyến giao thông của ta sang tả ngạn sông Hồng.

         Phối hợp chiến đấu với quân dân các địa phương, ngay trong thành phố - trung tâm kinh tế và bộ máy thống trị của thực dân Pháp, Đảng bộ Nam Định đã lãnh đạo cuộc đánh phá kinh tế của địch.

         Ngày 1-10-1950, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Nhà máy sợi, công nhân đốt cháy gần 50 vạn mét vải, hàng kho sợi và nhiều máy móc, gây thiệt hại cho địch tới hàng trăm triệu đồng Đông Dương. Hoạt động của công nhân không những gây tổn thất cho địch về mặt kinh tế mà còn gây tổn hại đáng kể về thông tin liên lạc của chúng. Để đánh đòn tâm lý, gây hoang mang trong binh lính và nguỵ quyền, công an nội thành đã gây nổ ở một cửa hàng giải khát giết một số sĩ quan và binh lính Âu - Phi.

    Cuộc chiến đấu trong vùng địch hậu đặc biệt ở các huyện phía nam Nam Định, nơi tập trung đồng bào theo đạo Thiên Chúa diễn ra gay go, quyết liệt. Với tính chất phản động, xảo quyệt, tàn bạo, bọn địch ở đây đã lập nên những đội quân tay sai khét tiếng "tử vì đạo" nhồi nhét cho họ tư tưởng chống cộng, thẳng tay chém giết những người cộng sản lỡ sa vào tay chúng; khống chê giáo dân không cho ủng hộ kháng chiến, che giấu cán bộ cách mạng. Cho nên Nghị quyết Hội nghị Tỉnh uỷ ngày 1-5-1950 đã chỉ rõ: "Công việc trước mắt là phải phá bằng được tổ chức vũ trang công giáo phản động để có thể tiến lên phá nguỵ quyền công giáo...", "có triệt phá được nguỵ quân, nguỵ quyền của bọn phản động đội lốt Thiên Chúa giáo thì mới tạo điều kiện đi sâu vào vùng Thiên Chúa giáo, tiến hành công tác giáo vận". Nghị quyết ngày 17-8-1950 của Thường vụ Tỉnh uỷ Nam Định chỉ rõ: "Đối với lực lượng tập trung là tiểu đoàn tự lực và lực lượng tập trung các quận, các đội công an xung phong; còn đối với bọn vệ sĩ nhà xứ thì mục đích là làm tan rã chứ không phải tiêu diệt địch. Khi đánh vị trí đóng ở nhà thờ, cấp uỷ địa phương phải lãnh đạo chặt chẽ và có kế hoạch công tác chính trị đầy đủ".

Phá hàng rào, tiêu diệt đồn địch.
Phá hàng rào, tiêu diệt đồn địch.

         Trong đợt hoạt động mạnh "Thi đua giết giặc lập công" bộ đội địa phương tỉnh, huyện đã phối hợp với du kích diệt và bức rút gần 20 đồn do bọn phản động trong giáo hội Thiên Chúa chiếm đóng, giết và làm bị thương gần 1.000 tên; hơn 100 trận đánh bọn vệ sĩ đi càn; trận tiêu hao đội quân "Quyết tử" của Vũ Đức Khâm ở Nhân Hậu (Nghĩa Hưng) và trận đánh tan một đại đội tự lực diệt tên tiểu đoàn trưởng Dương Công ở chợ Giá (Trực Ninh) đã làm rung chuyển hàng ngũ nguỵ quân. Cùng với những hoạt động địch vận, thắng lợi vang dội trên đã làm tan rã từng mảng nguỵ quân. Hai trung đội địch ở Xuân Trường trả súng về nhà; gần 30 thanh niên "trường Huấn luyện quân sự" của địch ở Nam Trực bỏ trốn.

         Đi đôi với việc phá nguỵ quân, các cấp uỷ Đảng quan tâm củng cố và phát triển lực lượng bán vũ trang, nơi nào có cơ sở Đảng là khôi phục được đội du kích. Tới cuối năm 1950, số du kích tập trung ở Nam Định đã lên tới 1.000 người, làm hạt nhân chiến đấu cho trên một vạn "du kích tham gia". Các chi bộ cơ sở đã bắt đầu chú trọng công tác giáo dục tư tưởng chính trị cho các đội du kích, đã bố trí 2/3 đảng viên trong chi bộ (có nơi tới 3/4 như huyện Mỹ Lộc) vào du kích, vừa để tự rèn luyện, vừa làm nòng cốt lãnh đạo. Những đội viên du kích tập trung còn được luân phiên trở về sản xuất, thay vào đó là những "du kích tham gia" luân phiên được tập trung để thường trực chiến đấu. Đó là một kinh nghiệm hay để các đội du kích tập trung có đủ lực lượng chiến đấu và vẫn bồi dưỡng được lực lượng hậu bị.

         Đối với nguỵ quyền, chính sách của ta là phân hoá hàng ngũ của chúng và có đối sách cụ thể với từng loại tề. Tỉnh uỷ Nam Định chủ trương: "Phải triệt phá tề lương để cô lập tề giáo, gieo hoang mang trong hàng ngũ chúng, tiến lên thuyết phục giải tán các ban tề giáo tuỳ theo mức độ gian ác của từng tên, ta vận động họ bỏ việc hoặc cảnh cáo bắt thôi việc, bắt đi cải tạo 1.000 tên tề lương (trong tổng số 2.000 tên ở Nam Định), đồng thời xử lý thích đáng những tên ngoan cố. Trên đà đó, ta thuyết phục giải tán 50 ban tề giáo. Quân dân ta còn đánh thẳng vào hai trụ sở ban Quân chính huyện Trực Ninh và Nam Trực, giải phóng hàng trăm cán bộ, du kích bị bắt. Công tác phá nguỵ quyền tuy có nơi còn nặng về trừng trị, nhẹ giáo dục thuyết phục và chưa chú ý đập tan ảnh hưởng của tề trong nhân dân, nhưng những hoạt động đó đã phá được ách kìm kẹp của địch ở nhiều nơi, tạo điều kiện cho quần chúng vùng dậy và làm hoang mang tổ chức nguỵ quyền các cấp.

         Phá nguỵ quyền địch đến đâu, ta khôi phục chính quyền nhân dân và các tổ chức quần chúng ngay tới đó. Đến cuối năm 1950, chỉ riêng ba huyện Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa Hưng còn từ 2/3 đến 1/2 số "xã trắng", chưa có chính quyền nhân dân. Nhiều nơi hai chính quyền ta - địch song song tồn tại. Trải qua chiến đấu, chính quyền của ta được sàng lọc và tăng cường những cán bộ thuộc thành phần cơ bản, có lập trường quan điểm vững vàng, có tinh thần đấu tranh và công tác tận tuỵ. Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, nông hội cũng dần dần phục hồi được khoảng 30% tổng số đoàn viên, hội viên, so với trước khi giặc mở rộng chiếm đóng. Hội Nông dân Cứu quốc được đặc biệt coi trọng xây dựng và tăng cường giáo dục ý thức giai cấp, 2/3 số xã trong toàn tỉnh đã xây dựng được Ban Chấp hành Nông hội xã. Ngày 15-10-1950, Trường Hành chính tỉnh Nam Định được thành lập và khai giảng khoá đầu tiên để bồi dưõng công tác chính quyền cho các uỷ viên uỷ ban kháng chiến hành chính huyện và xã.

         Trong thời gian này công tác vận động giáo dân được đặt ra toàn diện và xúc tiến tích cực. Nghị quyết đặc biệt về công tác giáo vận của Hội nghị cán bộ Tỉnh uỷ Nam Định ngày 1- 5-1950 đã xác định: "Vấn đề công giáo không phải là vấn đề tín ngưỡng thuần tuý mà là vấn đề địa chủ với dân cày công giáo" và "vận động giáo dân, động viên ý chí yêu nước của giáo dân chống giặc Pháp là chính". Nghị quyết còn chỉ ra nội dung công tác vận động giáo dân: Phải lấy việc bồi dưỡng tinh thần yêu nước, căm thù giặc cho giáo dân là chính, trên cơ sở đó làm cho họ thấy rõ bộ mặt thật của bọn phản động đội lốt tôn giáo cấu kết với giặc Pháp mà thoát ly ảnh hưởng của chúng, tiến lên đấu tranh đòi quyền lợi, chống áp bức, bóc lột. Do đó phương châm công tác giáo vận là phải dựa vào lực lượng cốt cán bần cố nông Thiên Chúa giáo, phải coi công tác giáo vận là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và mọi ngành; phải xoá bỏ thành kiến của cán bộ, nhân dân đối với đồng bào Thiên Chúa giáo. Sau một thời gian hoành hành, bọn phản động đã tự lột mặt nạ gian hiểm làm tay sai cho giặc. Nhân dân lương - giáo đã ngày càng thấy rõ bản chất xấu xa của chúng.

    Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, các chi bộ đảng và chính quyền đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên giúp đỡ, thăm hỏi bà con giáo dân, phổ biến chủ trương đoàn kết lương, giáo của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh; vạch rõ âm mưu, thủ đoạn thâm độc chia rẽ lương-giáo của giặc Pháp và bè lũ phản động, đồng thời nêu bật những gương tiêu biểu của những linh mục và giáo dân đã hết lòng kính chúa, yêu nước, phụng sự kháng chiến. Nhiều cán bộ, đảng viên do thấm nhuần chủ trương của Đảng, đã kiên trì gian khổ, thâm nhập quần chúng giáo dân, giác ngộ họ, tổ chức họ vùng dậy đấu tranh. Vì vậy, chỉ trong vòng nửa năm đã có hàng vạn giáo dân tham gia các đoàn thể kháng chiến. Giáo dân một số nơi đã vùng dậy chống bọn phản động đội lốt thầy tu, bảo vệ quyền lợi chính đáng hoặc tố cáo tội ác của chúng, buộc một số tên phải đổi đi nơi khác. Nhân dân Hải Hậu đấu tranh không cho Vũ Đức Khâm về xứ Hai Giáp (Hải Hậu). Nhân dân Văn Lý (Hải Hậu), Kiên Bình (Giao Thuỷ) đòi bọn "quân chính" phải trả lại vùng cá, bãi cói. Đồng bào ở Báo Đáp (Nam Trực) không cho địch phá nhà, bán ruộng lập thị trấn. Đặc biệt, hàng ngàn nông dân lương, giáo phối hợp đấu tranh buộc bọn địa chủ nhà Chung Ninh Cường phải cho xẻ đập Cau, do chúng đắp lại vì quyền lợi riêng của nhà Chung làm úng hàng ngàn mẫu ruộng của nông dân. Cuộc bãi thị của giáo dân Liên Hoành (Giao Thuỷ) chống bọn tu sĩ phản động thu và xé tiền Việt Nam, không những bảo vệ quyền lợi kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị rất lớn.

         Để tăng cường sức chiến đấu cho các tổ chức đảng, Tỉnh uỷ Nam Định chủ trương "xây dựng chi bộ bí mật và chiến đấu để lãnh đạo chiến tranh nhân dân", thông qua việc thực hiện nhiệm vụ chính trị từng thời kỳ và lãnh đạo chiến đấu đẩy mạnh phê bình và tự phê bình, thường xuyên tổ chức học tập đường lối, chính sách cho các đảng viên, trong đó đợt "kiểm thảo, sửa đổi nền nếp vận động nhân dân" theo Thư gửi đồng bào Liên khu III của Chủ tịch Hồ Chí Minh được tiến hành rất sâu rộng.

         Trong điều kiện vô cùng khó khăn ở vùng địch hậu, các Huyện uỷ mở được gần 100 lớp bồi dưỡng chính trị cho trên 2.000 cán bộ, đảng viên. Qua thực tế rèn luyện, trưởng thành đã xuất hiện những tập thể chi bộ giỏi trong việc phục hồi cơ sở và kiên quyết phát động chiến tranh nhân dân chống địch như các chi bộ Đồng Nguyên (Nghĩa Hưng); Bắc Sơn, Đồng Lạc (Nam Trực); Đỉnh Tân (Trực Ninh); Liên Phương (Hải Hậu); Liên Minh, Khánh Lão (Vụ Bản); khu phố Tống Văn Trân (thành phố Nam Định); Vũ Dương, Hợp Cường, Tứ Mỹ (Ý Yên)... rất nhiều đảng viên đã gan dạ giữ vững tinh thần cách mạng trước quân thù và anh dũng hy sinh. Đồng chí Trần Văn Chử quê xã Hải Trung, uỷ viên Thường vụ Huyện uỷ Hải Hậu, được huyện phân công trực tiếp lãnh đạo chỉ huy Đội Tuyên truyền vũ trang đã cùng đội ngày đêm len lỏi tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng đến với từng xóm đạo, thấu suốt đến từng người dân, chắp nối cơ sở, phục hồi phong trào. Trong một trận chiến đấu, bị sa vào tay giặc, địch ra sức mua chuộc và tra tấn cực hình, đồng chí vẫn giữ vững ý chí chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Đồng chí Trần Văn Thảo, Bí thư chi bộ Vũ Dương (Ý Yên) trong chiến đấu bị thương song không chịu về tuyến sau, tiếp tục ở lại trận địa cùng đồng đội chiến đấu đến lúc hy sinh.

         Đến cuối năm 1950, toàn Đảng bộ có 9.987 đảng viên với 257 chi bộ, trong đó 21 chi bộ (có 14 chi bộ ở Giao Thuỷ) trong vùng tạm bị chiếm sâu là chưa nối được liên lạc. Sau một năm vật lộn với địch, toàn tỉnh giảm 2.341 đảng viên (một số đảng viên hy sinh trong chiến đấu, một số qua thử thách bị rơi rụng, trong đó có 261 đảng viên bị thi hành kỷ luật). Qua thử thách, chiến đấu, các tổ chức đảng đã được củng cố, kiện toàn và tăng cưòng sức chiến đấu.

         Tháng 9-1950, Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch; củng cố mở rộng căn cứ địa Việt Bắc; nối liền nưóc ta với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa; giải phóng một phần đất đai, tiến tới giành quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính.

         Thắng lợi ở Chiến dịch Biên giới là một đòn giáng mạnh vào khả năng và ý đồ xâm lược lâu dài Việt Nam của thực dân Pháp. Sau thắng lợi này, quyền chủ động tiến công trên chiến trường đã nghiêng về phía quân và dân ta. Căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố. Việt Bắc được nối liền với các chiến trường khác trong nước. Vòng vây của chủ nghĩa đế quốc với nước ta đã bị chọc thủng.

         Thắng lợi của Chiến dịch Biên giói đã đánh dấu bước trưỏng thành lớn của Đảng ta trong việc lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh, củng cố lòng tin của nhân dân cả nước vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Thắng lợi đó cũng thúc đẩy mạnh mẽ phong trào chống cuộc chiến tranh bẩn thỉu của thực dân Pháp ở Đông Dương của các tầng lớp nhân dân Pháp. Nhân dân các nước Angiêri, Marốc, Tuynidi đã lên tiếng đòi quân viễn chinh Pháp ra khỏi Việt Nam. Nhiều nghị sĩ Quốc hội Pháp lên tiếng đòi Chính phủ Pháp đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh. Trong giới cầm quyền Pháp cũng nảy sinh nhiều mâu thuẫn và những chính kiến trái ngược nhau về cuộc chiến tranh mà họ đang tiến hành ở Đông Dương.

    Để cứu vãn tình thế, cùng với viện trợ lớn của Mỹ, ngày 6-12-1950, Chính phủ Pháp quyết định phái Đại tướng Đòlát Đò Tátxinhi, Tư lệnh lục quân khối Tây Âu sang làm Tổng chỉ huy trưởng quân đội viễn chinh, kiêm chức Cao uỷ Pháp ở Đông Dương.

         Tới Đông Dương, Đòlát Đò Tátxinhi đưa ra một kế hoạch gồm bốn điểm chính:

          - Gấp rút tập trung binh lực, xây dựng lực lượng cơ động chiến lược và ra sức phát triển nguỵ quân.

          - Xây dựng tuyến phòng thủ cắt ngang miền Bắc bằng con đường số 18, dựng hệ thống Boongke (bằng xi măng cốt sắt) cố thủ con đưòng ấy. Bên ngoài hệ thống này là một "vành đai trắng" bao vây quanh vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ để ngăn chặn chủ lực của ta đánh vào vùng địch; ngăn chặn nhân lực, vật lực ta đưa ra vùng tự do.

          - Tập trung lực lượng bình định vùng sau lưng địch, chủ yếu là vùng đồng bằng Bắc Bộ, coi đây là "cái chốt ở Đông Nam châu Á".

          - Phá hoại các vùng tự do và chuẩn bị mở cuộc tiến công ra vùng tự do của ta, hòng gây thanh thế, lấy lại tinh thần binh lính địch, làm sức ép cho việc xin viện trợ Mỹ và giành lại quyền chủ động.

         Được can thiệp Mỹ tăng cường viện trợ, thực dân Pháp ngoan cố bám lấy chính sách cổ điển "Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", khai thác triệt để nguồn nhân lực, vật lực tại chỗ để tiếp tục cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tháng 11-1950, một phái đoàn Mỹ về thành phố Nam Định để hà hơi tiếp sức cho binh lính Pháp. Một phái đoàn khác xuống Bùi Chu với ý đồ giúp bọn phản động trong giáo hội Thiên Chúa, xây dựng Thuỷ Nhai thành một "Làng chống cộng kiểu mẫu", được vũ trang toàn diện để chống lại kháng chiến. Cuối năm 1950 đầu năm 1951, quân ứng chiến Pháp lại dồn về Nam Định. Chúng đưa nguỵ quân ra làm nhiệm vụ chiếm đóng và tập trung hầu hết binh lính Âu - Phi thành những đội quân ứng chiến mạnh, đóng thêm một số vị trí trọng yếu (núi Ngăm, phố Cháy), điều thêm quân cơ động về các vị trí quan trọng, để từ những chốt đó phối hợp mở những cuộc càn quét lớn theo nhiều hướng. Chúng dồn lực lượng, lấy ưu thế về quân số, vũ khí, tập trung đánh phá dứt điểm từng làng chiến đấu, từng khu du kích của ta từ huyện Nam Trực trở lên các huyện phía bắc Nam Định. Mức độ tàn phá của địch ác liệt chưa từng có. Chỉ trong ba tháng chúng đã mở 117 trận càn lớn, đốt phá trên 1 vạn nóc nhà, trên 2 vạn thùng thóc. Rất nhiều thôn, xóm bị địch triệt hạ như Giao Cù, Tây Lạc, Vân Cù (Nam Trực); Hào Kiệt, Lương Kiệt (Vụ Bản); Vũ Dương, Lũ Phong (Ý Yên).

         Để phối hợp hành động, bọn phản động trong Giáo hội Thiên Chúa ở phía nam tỉnh cũng ra sức càn quét, cướp bóc, đánh phá các thôn xóm cơ sở của ta. Riêng huyện Xuân Trường trong nửa tháng 11-1950, chúng đã vây quét 50 cuộc. Tên phản động Vũ Đức Khâm chỉ huy hai trung đội đánh phá liên miên phong trào kháng chiến huyện Hải Hậu, chúng nêu khẩu hiệu: càn thanh, quét cán, diệt cộng sản.

         Nhằm vào những sơ hở của địch ở khu vực giữa "tỉnh công giáo tự trị Bùi Chu" và "Nam Định thuộc nguỵ quyền Bắc phần", ta đẩy mạnh hoạt động du kích, tranh thủ mở rộng khu Dân Chủ, Cộng Hoà gồm các xã Nam Thành, Nam Bình, Nam Minh và Nam Hoa (huyện Nam Trực), thông sang khu du kích Đồng Nguyên, Bắc Sơn (Nghĩa Hưng và Nam Trực), nối liền với khu du kích Vụ Bản, thượng Nghĩa Hưng. Thắng lợi trên làm cho phong trào kháng chiến ở sáu huyện phía nam tỉnh chuyển biến mạnh mẽ, hoạt động của địch bị hạn chế, nhiều xã ta đã hoàn toàn làm chủ.

    Khi địch mở các cuộc hành quân đánh phá dữ dội các làng kháng chiến và căn cứ du kích của ta, cấp uỷ ở các địa phương đã lãnh đạo nhân dân cùng lực lượng vũ trang đã kiên trì bám trụ, dũng cảm, linh hoạt chiến đấu, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Địch âm mưu chia cắt từng vùng, càn quét dứt điểm, bao vây cất vó ta, thì bộ đội, du kích vừa đánh, vừa di chuyển không cho chúng bao vây. Địch đánh nơi này, ta nhằm sơ hở tiến công chúng nơi khác. Quân địch rút, lập tức cán bộ hướng dẫn nhân dân nhanh chóng trở về khôi phục nhà cửa, gặt hái, cất giấu tài sản; đồng thời tiến hành vũ trang tuyên truyền đẩy mạnh chiến tranh du kích; trong đó có nhiều trận chống càn đạt hiệu suất chiến đấu cao. Điển hình là nhân dân và du kích Hợp Cường (Ý Yên) chỉ với vũ khí thô sơ đã chiến đấu ròng rã ba ngày dưới bom đạn của giặc, đánh bật hàng chục đợt xung phong, làm 115 tên chết và bị thương. Trận Trại Kiếu (Ý Yên) chỉ có sáu du kích, một cụ già, một em nhỏ liên lạc đã chặn đánh sáu đợt xung phong của giặc có máy bay và pháo lớn yểm trợ. Đến tối, địch phải tháo lui. Trong trận Bắc Sơn - Đồng Nguyên tháng 3-1951, 10 cây súng của bộ đội đã đương đầu với 2.000 quân địch, có máy bay, tàu chiến yểm trợ, có đại bác tập trung bắn hàng ngàn quả đạn. Sau nhiều lần xung phong, bị thiệt hại nặng, địch mới vào được làng. Chiến thắng Bắc Sơn - Đồng Nguyên có một ý nghĩa rất lớn. Nó chỉ ra khả năng một số đơn vị nhỏ lực lượng vũ trang địa phương, dựa vào làng chiến đấu có thể đánh bại cuộc tiến công với lực lượng lớn quân địch.

         Tuy nhiên trong chỉ đạo, chúng ta đã mắc một số thiếu sót, Đảng bộ chưa uốn nắn kịp thời những tư tưởng chủ quan, lạc quan "tếu", biểu hiện rõ rệt nhất ở những hoạt động công khai, phô trương lộ liễu... nảy sinh từ những thắng lợi vừa đạt được.

         Một số cấp uỷ còn phạm sai lầm "tả khuynh" như ở Xuân Trường, Trực Ninh. Trong khi địch đang tập trung lực lượng đánh phá, cơ sở kháng chiến vừa được phục hồi nhưng chưa được củng cố thì một số đồng chí trong Huyện uỷ áp dụng máy móc kinh nghiệm của Ý Yên, đã phát động quần chúng nổi dậy phá tề, rào làng chiến đấu trong toàn huyện Xuân Trường và một phần huyện Trực Ninh. Tuy Xuân Trường đã phá được bộ máy nguỵ quyền địch trong nửa số thôn xã toàn huyện. Nhân dân trại My (Trực Ninh) đã ngoan cường chiến đấu với địch, nhưng do chưa được chuẩn bị chu đáo mọi mặt nên cuộc nổi dậy này đã nhanh chóng bị địch dập tắt. Đêm 4- 4-1951, phong trào vừa phát động thì sáng 5-1-1951 địch đem quân về khủng bố, đàn áp khốc liệt. Nhiều cán bộ, đảng viên chiến đấu rất dũng cảm, nhưng trong tác chiến lại nặng về cố thủ trong làng chiến đấu, quyết đánh đến cùng, nên khi từng làng chiến đấu đơn độc thì không thể ngăn cản được lực lượng áp đảo của địch. Tuy tiêu diệt được 70 tên địch, bắt 75 tề nguỵ nhưng ta bị thiệt hại nặng: 122 người hy sinh, trong đó có 37 bộ đội, du kích, 8 cán bộ huyện, 18 chi uỷ viên xã, trên 100 người bị thương, 600 người bị bắt, 300 nóc nhà bị đốt. Phong trào bị tổn thất lớn.

         Qua chiến đấu, chi bộ xã Trung Nghĩa (Ý Yên) đã có kinh nghiệm là khi gặp địch đánh mạnh, biết chiến đấu đến mức nào đó rồi tạm thời luồn địch, chuyển hướng hoạt động bí mật duy trì cơ sở, ngăn chặn tề "mọc lên", chuẩn bị trở lại đấu tranh vũ trang khi có điều kiện. Nhưng những kinh nghiệm đó chưa được ứng dụng và phát huy rộng rãi.

         Phong trào kháng chiến Nam Định từ đây lại gặp khó khăn. Cơ sở đảng, chính quyền, tổ chức quần chúng ở những nơi địch đánh phá bị đảo lộn. Hầu hết bộ đội địa phương, dân quân du kích bị bật ra ngoài. Nguỵ quyền mọc lên ở hầu hết các huyện, xã. Toàn tỉnh Nam Định lại trở thành vùng địch tạm chiếm.

         Thời gian đầu thực hiện kế hoạch Đòlát Đò Tátxinhi ở đồng bằng Bắc Bộ, với những trận càn quét khốc liệt của chúng, nhiều cơ sở ở trong vùng sau lưng địch bị tổn thất. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong vùng địch tạm chiếm có phần bị giảm sút... "Tuy không thể giành lại được thế chủ động tiến công, nhưng thực dân Pháp đã giữ được thế phòng ngự ở đồng bằng Bắc Bộ". Thực tế đó đã đặt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói chung và quân dân Nam Định nói riêng trước những khó khăn phức tạp mới.

         Song kế hoạch Đờlát Đò Tátxinhi được đề ra khi thực dân Pháp bị thất bại nặng ở biên giới, quyền chủ động tiến công trên chiến trường đã nghiêng về phía quân và dân ta. Quân đội viễn chinh Pháp ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự, bị động cho nên thực chất đó là một kế hoạch "chữa cháy" cho quân đội thực dân.

          Mặc dù phải trải qua muôn vàn khó khăn, thử thách, Đảng bộ và quân dân trong tỉnh vẫn kiên trì đường lối kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện do Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động. Trong gian khổ hy sinh, nhiều cán bộ, đảng viên vẫn nêu cao tinh thần cách mạng, kiên trì bám đất, bám dân.

          Một số cấp uỷ thuộc các ban Huyện uỷ lúc đầu tạm thời bật ra ngoài, sau đó đã về cùng cán bộ cơ sở bí mật xây dựng lại phong trào. Trong vùng kìm kẹp, khủng bố dã man của kẻ thù, nhân dân vẫn một lòng tin tưởng ở đường lối kháng chiến do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo, hết lòng ủng hộ, nuôi giấu, bảo vệ cán bộ, bộ đội. Vì vậy, ở một số xã, lực lượng của ta vẫn trụ lại được. Những nơi bị tàn phá nặng nề nhân dân vẫn âm ỉ nuôi giữ ngọn lửa kháng chiến để khi có điều kiện lại bùng lên áp đảo quân thù.

VI. PHỤC HỒI CƠ SỞ, KIÊN TRÌ ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH DU KÍCH, CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNG PHẢN CÔNG ĐỊCH

    Bước vào năm 1951, trong khi nhân dân Nam Định đang vượt qua nhiều thử thách gay gắt, kiên cường chiến đấu chống giặc Pháp thì một sự kiện chính trị trọng đại diễn ra trên đất nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được tổ chức từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Đại hội đã tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh của Đảng và đề ra chủ trương đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến toàn thắng; quyết định đưa Đảng ra công khai và lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Sau đó Liên khu uỷ III mở Hội nghị cán bộ Liên khu (từ ngày 6 đến ngày 13-3-1951) để quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng, đề ra nhiệm vụ trung tâm cho toàn Liên khu là: Phát động chiến tranh du kích đến cao độ; mở rộng và mở thêm những khu du kích trong lòng địch. Nhiệm vụ tăng gia sản xuất, bảo vệ thóc lúa được đề ra sau nhiệm vụ kháng chiến nhằm động viên sức của cho kháng chiến, chống âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của địch.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II, diễn ra từ ngày 11-19/2/1951 tại xã Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II, diễn ra từ ngày 11-19/2/1951 tại xã Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang.

         Quán triệt chủ trương của Trung ương, của Liên khu uỷ III, từ ngày 20-3 đến ngày 3-4-1951, tại một địa điểm thuộc huyện Yên Định tỉnh Thanh Hoá, Đảng bộ Nam Định đã họp Hội nghị đại biểu toàn tỉnh đề ra nhiệm vụ bao trùm cho toàn tỉnh trong năm 1951: "Quyết tâm vượt mọi khó khăn, tích cực xây dựng cơ sở mọi mặt, thực hiện góp công, góp của để đánh thắng". Hội nghị đề ra chủ trương và biện pháp khôi phục, phát triển các làng chiến đấu, chuẩn bị tiến tới xây dựng những khu du kích, phát động quần chúng đấu tranh với giặc từ thấp lên cao; từng bước đòi quyền lợi thiết thân, tiến lên đấu tranh quân sự với địch. Một nhiệm vụ cấp thiết trước mắt được đề ra là: Gấp rút chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị tiếp thu vùng mới giải phóng khi quân ta mở chiến dịch đánh lớn ở chiến trường đồng bằng. Hội nghị còn nêu vấn để học tập lý luận, đào tạo cán bộ, tự phê bình và phê bình, mở rộng dân chủ trong Đảng.

         Lúc này địch dồn mọi nỗ lực để bình định bằng được vùng tạm chiếm. Chúng ra sức củng cố nguỵ quyền theo hướng thống nhất, tập trung quyền lực chỉ huy của Pháp và gạt ra dần những thế lực thân Mỹ. Cái chiêu bài "Công giáo tự trị" bị xoá bỏ. "Khu Công giáo tự trị Bùi Chu" trở thành "Tỉnh Bùi Chu", sáp nhập vào Bắc phần thuộc hệ thống nguỵ quyền Bảo Đại. Tiểu đoàn "Tự lực 2" Bùi Chu nay thành tiểu đoàn nguỵ 16 BVN của Pháp. Ở các cấp nguỵ quyền, các đảng phái thân Mỹ như "Đại Việt Duy dân", "Liên hiệp Dân chúng"... đều bị gạt ra và thay bằng những tên thân Pháp.

          Đề phòng ta mở chiến dịch, địch tung lực lượng ứng chiến, đóng thêm vị trí ở Cổ Đam, Kinh Thanh, cầu Bo, Phố Cháy (Ý Yên); sửa chữa đường sá, tăng cường kiểm soát các đưòng giao thông. Chúng còn mở nhiều cuộc càn quét cướp phá thóc lúa và thuyền bè, tre, luồng làm cầu... mà ta chuẩn bị cho chiến dịch.

          Về phía ta, phần lớn các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện đều rút ra vùng tự do Ninh Bình, Thanh Hoá để củng cố. Các xã phía bắc tỉnh, nhất là huyện Ý Yên, bị địch chà đi xát lại rất ác liệt. Phần lớn nhân dân phải tản cư ra vùng tự do, một số chạy vào vùng tạm chiếm. Bộ máy lãnh đạo xã lại có hiện tượng xáo trộn, rời rạc, có những bộ phận bị "bật đất". Do đó việc chuẩn bị của địa phương cho chiến dịch gặp nhiều khó khăn.

          Trước tình hình ấy, Thường vụ Tỉnh uỷ Nam Định đã có kế hoạch bổ khuyết, đề ra phương hướng chuẩn bị chiến trường cho địa phương: Phục vụ và phối hợp với bộ đội chủ lực, tận dụng thời cơ chiến dịch, địch đang lúng túng mà tranh thủ nhân dân, mở rộng cơ sở, đẩy mạnh chiến tranh du kích, xây dựng làng chiến đấu và mở rộng hình thức "Thôn trang chiến". Thường vụ Tỉnh uỷ còn đề ra một số công tác cụ thể như lãnh đạo nhân dân bảo vệ mùa màng, chống địch thu thuế và phá thóc lúa; đẩy mạnh công tác nguỵ vận làm tan rã hàng ngũ địch; tập trung lực lượng phá tề vũ trang. Về công tác tư tưởng, Thường vụ chỉ rõ cần phải chống những tư tưởng sai lệch như cầu an, không dám vùng dậy đấu tranh, hoặc quá ỷ lại, trông chờ bộ đội chủ lực; đồng thời cũng phải tránh lạc quan "tếu" làm lộ bí mật hoặc để "tiêu binh" lực lượng.

         Vào những ngày cuối tháng 4-1951, tại căn cứ địa Việt Bắc, theo chủ trương của Đảng, Bộ tổng tư lệnh mở hội nghị tổng kết kinh nghiệm chiến dịch Hoàng Hoa Thám và ra quyết định mở Chiến dịch Quang Trung (tức Chiến dịch Hà Nam Ninh) nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực của địch, phá một mảng nguỵ quân, nguỵ quyền, tạo điều kiện cho việc phục hồi cơ sở, phát triển du kích chiến tranh và bảo vệ tính mạng, tài sản, mùa màng cho nhân dân.

         Đảng uỷ mặt trận và bộ chỉ huy chiến dịch đã xác định hướng chiến dịch và phân công các đơn vị chủ lực như sau:

         Hướng chính là Ninh Bình do hai Đại đoàn 304 và 308 đảm nhận. Hướng quan trọng là Hà Nam do Đại đoàn 320 đảm nhiệm. Hướng hoạt động phối hợp là Nam Định.

    Đêm 28 rạng ngày 29-5-1951, Đại đoàn 308 được bộ đội địa phương và dân quân du kích dẫn đường đã nổ súng tiến công cứ điểm Đại Phong và Non Nước ở thị xã Ninh Bình, mở màn chiến dịch. Cùng lúc, ở Yên Khánh, Yên Mô, Đại đoàn 304 đánh một lúc bốn cứ điểm: Chùa Cao, Yên Vệ, Cô Đôi, Yên Mô Thượng. Ở hướng Hà Nam, Đại đoàn 320 đánh một loạt cứ điểm trên tuyến sông Đáy, tiêu diệt vị trí Võ Giàng, tiêu hao địch ở Kỷ Cầu... bức địch rút chạy khỏi Đoan Vỹ, chọc thủng một mảng lớn tuyến phòng thủ sông Đáy.

         Tuy có "nhổ" được một số vị trí và tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch nhưng ta vẫn chưa phát động được mạnh mẽ chiến tranh du kích. Các lực lượng vũ trang địa phương, nhất là lực lượng du kích đánh địch còn yếu, công tác "phá hoại" chưa làm được bao nhiêu nên không kiềm chế được sức mạnh cơ giới của chúng.

Nhân dân thành phố Nam Định vui mừng đón bộ đội tiến vào tiếp quản thành phố ngày 1-7-1954.
Nhân dân thành phố Nam Định vui mừng đón bộ đội tiến vào tiếp quản thành phố ngày 1-7-1954.

         Ngày 7-6-1951, đợt 2 của chiến dịch mở đầu bằng trận bộ đội địa phương và dân quân du kích sát cánh cùng bộ đội chủ lực tiến công vào Phát Diệm và chống địch càn quét ở Đông Lương (xã Trùng Khánh, huyện Vụ Bản), ở Bồ Vi (Yên Phúc, Yên Khánh, Ninh Bình). Tiếp đó, các đơn vị chủ lực cùng dân quân địa phương kiên quyết thực hiện khẩu hiệu "khoá cổng bốt, bịt mũi súng, trói tay địch lại, đưa lúa về nhà" (vừa đánh địch vừa thu hoạch lúa chiêm).

         Tại hướng Nam Định những ngày đầu chiến dịch, tinh thần nguỵ quân, nguỵ quyền hoang mang dao động. Một số tên đảo ngũ hoặc ra hàng ta, 200 vệ sĩ ở Bùi Chu đấu tranh với chỉ huy đòi về nhà, 20 lính nguỵ ở thành phố Nam Định đòi giải ngũ. Bọn chỉ huy hốt hoảng vội điều năm tiểu đoàn ứng chiến về phía bắc Nam Định bảo vệ phòng tuyến sông Đáy. Thay cho những cuộc càn quét sục sạo, chúng điên cuồng ném bom, bắn phá các thôn xóm nghi có bộ đội; đồng thời điều quân nghi binh đánh lạc hướng quân ta.

         Chiến dịch mở, nhưng bộ đội chủ lực không hoạt động trên địa bàn Nam Định, phần lớn bộ đội địa phương của tỉnh, huyện còn chưa về kịp. Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh uỷ chưa truyền đạt xuống hết được các huyện, xã. Do đó, trong những ngày đầu chiến dịch ta gặp nhiều lúng túng, chỉ phá được một số đoạn đường 21, phá huỷ vị trí núi Bô, phá cầu Bo trên đường 57 (Ý Yên) và một vài đồn dõng thuộc huyện Vụ Bản.

         Tất cả những điều kiện khách quan và thiếu sót do chủ quan đã làm cho ta lúng túng trong thời gian đầu chiến dịch bỏ lỡ cơ hội phối hợp với hoạt động khi tiếng súng chiến dịch đã mở.

         Khắc phục tình trạng đó, ngày 8-6-1951, Thường vụ Tỉnh uỷ Nam Định xác định quyết tâm xốc mạnh phong trào, bắt kịp thời cơ, đặt lên hàng đầu công tác khuếch trương thắng lợi sâu rộng trong quần chúng cùng với việc phá rã nguỵ quyền địch; quy định phải tập trung 2/3 số cán bộ, thành lập những đội tuyên truyền vũ trang, về tư tưởng, Thường vụ xác định dứt khoát cho cán bộ, đảng viên phải bám dân, nhân dân phải bám đất, địch mạnh ta tạm luồn tránh, địch đi ta trở lại, kiên trì gian khổ tạo mọi điều kiện để hoạt động bí mật và chuẩn bị mọi mặt chống địch khủng bố. Mặc dù lúc này quân ứng chiến của địch còn chưa rút, vụ chiêm đang thu hoạch, cơ sở của ta chưa ổn định, nhưng Thường vụ vẫn chủ trương quyết tâm đẩy mạnh việc phá nguỵ quyền cơ sở của địch, quy định trách nhiệm tự lực cho xã bộ, bộ đội và công an. Cấp trên chỉ hỗ trợ trong trường hợp thật cần thiết.

         Được xác định tư tưởng quyết tâm bám dân, bám đất, cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và bán vũ trang nhân lúc địch lúng túng đã luồn trở lại địa phương hoạt động.

         Ở các huyện miền Nam, nhiều cơ sở trải qua một thời gian khôi phục, củng cố đã dần dần vững vàng. Để làm đà cho quần chúng vùng dậy, công an và một đơn vị bộ đội địa phương dũng cảm mưu trí, luồn sâu đột kích vị trí Tứ Trùng (Hải Hậu) bắn bị thương nặng tên phản động gian ác Vũ Đức Khâm, sau đó lại chặn viện thắng lợi tại chợ Mới. Đó là một đòn bất ngờ quật mạnh vào vùng sau lưng địch, làm cho hàng ngũ tay sai đã hoang mang càng hoang mang hơn. Nhân đà đó, các chi bộ cơ sở đã kịp thời phát động quần chúng vùng dậy đấu tranh làm áp lực cho việc phá nguỵ quyền cơ sở. Tính chung ba huyện Hải Hậu, Xuân Trường, Nghĩa Hưng, ta đã thuyết phục được 68 ban tề và liên lạc được với 2 ban khác. Bởi vậy, ta mới có điều kiện vào vùng địch "tạm chiếm sâu" chắp mối lại một số chi bộ ở Nghĩa Hưng lâu nay vẫn bị mất liên lạc, khôi phục được nhiều cơ sở vùng Thiên Chúa giáo khó khăn nhất như Xuân Lạc, Lục Thuỷ, Trường Trung Linh (ở Xuân Trường) và Phú Ninh - Tân Khai (Giao Thuỷ), nơi địch đã gây ra bạo loạn hồi cuối năm 1949.

         Ở các huyện: Vụ Bản, Ý Yên tuy có khó khăn hơn nhưng cũng đã giải tán hầu hết những ban tề vừa lập lại.

    Ngày 20-6-1951, Chiến dịch Quang Trung kết thúc. Đầu chiến dịch, ta bỏ lỡ thời cơ; giữa chiến dịch tuy có cố gắng, song tình thế không còn thuận lợi như trước, nên chủ trương mở rộng cơ sở mối thực hiện được một chừng mực; đồng thời chưa đẩy mạnh chiến tranh du kích, "xây dựng làng chiến đấu" như Thường vụ Tỉnh ủy Nam Định đã đề ra. Tình hình trong tỉnh vẫn rất khó khăn.

Uỷ ban quân chính và hành chính thành phố Nam Định ra mắt nhân dân ngày 2-9-1954.
Uỷ ban quân chính và hành chính thành phố Nam Định ra mắt nhân dân ngày 2-9-1954.

         Chúng ta chưa tranh thủ được thời cơ để hoàn thành nhiệm vụ vì có những khó khăn khách quan, nhưng chủ yếu là ta chưa nắm vững phương châm chỉ đạo các lực lượng vũ trang địa phương trong địch hậu là phải "Bám sát dân, chống thoát ly nhân dân"; trong khi đó, lại có chủ trương cho bộ đội tỉnh, huyện ra vùng tự do Ninh Bình, Thanh Hoá để củng cố và huấn luyện. Xa dân, xa phong trào gặp nhiều khó khăn, sức khoẻ bộ đội giảm sút, nhiều tư tưởng tiêu cực nảy sinh. Chiến dịch mở, đường về bị địch phong toả, tới giữa chiến dịch mới về được thì lại bỡ ngỡ một thời gian, nên bộ đội chưa làm được vai trò mũi nhọn và chỗ dựa cho quần chúng vùng dậy.

         Mặt khác các cơ quan chỉ đạo của tỉnh và nhiều huyện, tuy có để một bộ phận trong địch hậu, nhưng lực lượng quan trọng vẫn còn ở ngoài vùng tự do Ninh Bình, Thanh Hoá và chỉ đạo thiếu kịp thời, sắc bén.

         Sau Chiến dịch Quang Trung, địch ra sức tiến hành chiến tranh tổng lực, tiếp tục đánh phá ác liệt, tăng cường vơ vét kinh tế, đẩy mạnh chiến dịch đầu độc, lừa gạt nhân dân trên lĩnh vực chính trị, văn hoá.

         Quân địch được điều về ứng phó Chiến dịch Quang Trung vẫn tiếp tục đóng lại trên phòng tuyến sông Đáy hàng tháng để phối hợp với quân chiếm đóng tiếp tục càn quét, đánh phá vùng tranh chấp, ở phía nam Nam Định, chúng đưa một số lính ứng chiến Âu - Phi ở các mặt trận về Bùi Chu nghỉ ngơi và hỗ trợ ngụy quân, nguỵ quyền tiếp tục âm mưu bình định. Chúng lập thêm hệ thống tề dõng ở cấp tổng, vũ trang cho nhiều ban tề xã để tăng cường kìm kẹp nhân dân ta.

         Đặc biệt liên tiếp trong tháng 7, tháng 8-1951, địch càn quét dữ dội các huyện: Nam Trực, Trực Ninh nơi phong trào vừa được phục hồi khá nhất ở phía nam tỉnh. Với khẩu hiệu "càn thanh, quét cán", địch phối hợp cả quân cơ động, quân đồn trú và lực lượng biệt động bao vây chặt chẽ, lục soát kỹ càng từng thôn. Khu căn cứ kháng chiến liên hoàn "Dân Chủ - Cộng Hoà" gồm các xã Nam Minh, Nam Hoa, Nam Trung, Nam Hồng bị tàn phá. Các chi bộ bị tổn thất lớn, nhiều bí thư chi bộ hy sinh, lực lượng vũ trang bị hao hụt nhiều. Riêng ở Nam Trực, qua cuộc càn quét này, số du kích chiến đấu chỉ còn lại không được 1/3. Ở thành phố Nam Định, một số cán bộ, đoàn viên thanh niên, học sinh, công đoàn và hội liên hiệp Hoa kiều cũng bị địch bắt vì hoạt động công khai, lộ liễu, để kẻ địch lọt vào tổ chức làm nội gián phá ta.

         Nhằm triệt phá kinh tế của ta, trong các trận càn quét, địch đã cho xe cóc phá nát lúa chín ngoài đồng, vứt lúa độn đường cho xe cơ giới quần nát, đổ thóc xuống sông hoặc còn đưa cả cối xay đến bắt dân làm gạo chuyển đi. Trong đó huyện Ý Yên bị thiệt hại nhiều nhất.

         Ở vùng tạm chiếm sâu, ngoài việc tung tiền giả ra đong thóc, giặc đã dụ dỗ, ép buộc nhân dân tập trung thóc lên các vị trí địch đóng quân, lấy cớ là để "bảo vệ tài sản cho dân chúng", để "Việt Minh khỏi lấy mất". Đồng thời chúng tiến hành vơ vét bằng thuế má rất nặng nề. Ngoài thuế ruộng, thuế môn bài, thuế thuyền chài, thuế muối.... Chúng còn đặt ta nhiều thứ thuế vô lý như thuế lập tỉnh Bùi Chu bổ vào từng thôn bên lương và mỗi giáo dân, thuế nuôi dưõng, đánh vào những người dân từ 16 đến 60 tuổi, không kể trai hay gái.

         Một mặt cướp phá, vơ vét, một mặt chúng đầu độc lừa bịp quần chúng, cho lưu hành nhiều loại sách báo phản động, đồi truỵ, mở lại một số trưòng học truyền bá nền giáo dục thực dân.

         Chiến tranh tổng lực của địch gây rất nhiều khó khăn cho ta. Tính đến tháng 10-1951, trong số trên 700 thôn trong tỉnh chỉ còn ba thôn ở Ý Yên và một thôn ngoại thành Nam Định là không có tề. Một lần nữa Nam Định lại bị địch tạm chiếm hoàn toàn.

    Trong tình hình khó khăn, Đảng bộ Nam Định đã đi vào củng cố lực lượng vũ trang. Hướng chính là kiện toàn bộ đội huyện để có điều kiện trực tiếp dìu dắt du kích xã, để bộ đội rảnh tay cơ động. Muốn chống địch đánh phá cơ sở, lúc đầu Tỉnh uỷ chủ trương phải đẩy mạnh hoạt động quân sự, hạn chế quân địch hoành hành và bảo vệ cơ sở. Nhưng những chủ trương đó lại chưa thật phù hợp với khả năng và điều kiện của quân và dân trong tỉnh lúc này. Phát hiện được những thiếu sót đó, Liên khu uỷ và Bộ tư lệnh Liên khu đã kịp thời uốn nắn và có ý kiến chỉ đạo. Để đẩy cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện ở địa phương lên một bước mới, Tỉnh uỷ Nam Định phát động "Tháng hoạt động mạnh" với yêu cầu:

          - Một số nơi phải giành được quyền chủ động hoạt động về ban đêm.

          - Đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền giáo dục, giữ vững cơ sở là chủ yếu; đồng thời phải lãnh đạo đấu tranh bảo vệ và vận chuyển thóc lúa, thu thuế nông nghiệp, đẩy mạnh hoạt động quân sự, phá tề vũ trang, xây dựng dân quân du kích, tăng cường địch vận.

          Phương châm hoạt động của lực lượng vũ trang được Tỉnh uỷ đề ra là: Phân tán là chủ yếu, phân tán để vũ trang tuyên truyền gây cơ sở; khi cần thì tác chiến bảo vệ cơ sở; phân tán phải nghĩ đến tập trung, tập trung không quên phân tán.

          Đối phó với chiến tranh tổng lực của địch, ta có nhiều cố gắng trên mặt trận đấu tranh kinh tế. Các tổ chức Đảng đã kết hợp nhiệm vụ khôi phục cơ sở với việc tổ chức quần chúng gặt nhanh, giấu kỹ, phân tán thóc lúa. Cán bộ tỉnh, huyện được phái về các xã giúp dân. Bộ đội, du kích canh gác, bao vây giữ chân địch cho dân gặt. Quần chúng đã phát huy nhiều sáng kiến, khắc phục khó khăn, lập tổ đổi công, chuyển gặt về đêm, ghép bè chuối thay thuyền chuyên chở... Một số nơi còn vận động nguỵ binh không bắn phá để dân yên tâm thu hoạch. Cao hơn nữa, có chi bộ đã tổ chức quần chúng đấu tranh hợp pháp đòi giặc phải ngừng hành quân càn quét để dân gặt hái, nên đã hạn chế được một phần thiệt hại, thu hoạch được phần lớn diện tích lúa đã chín.

          Để chống địch bắt tập trung thóc, tổ chức đảng các cấp đã gắn việc giáo dục lòng căm thù giặc Pháp cấu kết với bọn phản động đội lốt Thiên Chúa giáo gây tội ác ở Bùi Chu với việc phát động mọi tầng lớp quần chúng giáo cũng như lương đấu tranh giành giật lại thóc lúa với giặc. Đồng bào đã nhanh chóng giúp đỡ nhau giấu thóc hoặc chuyển thóc ra những thôn xóm ở ngoài vòng kiểm soát của địch. Ngoài ra ta còn có nhiều sáng kiến đấu tranh hợp pháp như làm đơn khiếu nại, dây dưa không chịu thi hành... Cuối cùng địch phải bỏ chủ trương bắt tập trung thóc. Có nơi, địch đã tập trung rồi, phải trả lại.

         Các chi bộ còn phát động quần chúng chống thuế như khất lần, dây dưa không nộp, khai lậu số thuế, vận động tề không thu, nói dối là "Việt Minh lấy mất sổ thuế", hoặc thu rồi nộp lại cho ta. Tuy nhiên kết quả chỉ làm chậm trễ và hạn chế được một phần công việc của địch. Chúng vẫn thu được 70% số thuế trong vùng chúng kiểm soát.

         Đồng thời với việc bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, một số cấp uỷ Đảng ở địa phương còn chủ động phát động nhân dân đấu tranh hợp pháp với địch, buộc chúng phải để cho nhân dân đắp những quãng đê xung yếu trên các triền sông Hồng, sông Đào, sông Ninh Cơ thuộc các địa phận Hữu Bị (Mỹ Lộc), Vị Khê, An Lá, Thi Châu (Nam Trực), Lộ Xuyên (Trực Ninh).

         Thi hành lệnh tổng động viên của Đảng và Chính phủ, nông dân Nam Định thi đua đóng góp các loại thóc công thương, điền thổ, tạm cho vay và mua công trái quốc gia với trên 2.000 tấn thóc và hàng chục triệu đồng. Có thôn ngay sát vị trí địch nhưng chỉ mấy tiếng đồng hồ đã góp xong số thóc được huy động. Đến tháng 10-1951, trên 1.000 tấn thóc đã chuyển ra vùng tự do.

         Mặc dù toàn tỉnh bị tạm chiếm, nhưng tổ chức Đảng các cấp, các đảng viên cơ sở nói chung vẫn vượt gian khổ bám đất, bám dân. Nguỵ quyền tuy mọc lên khắp nơi nhưng chính quyền ta vẫn tồn tại ở hầu hết các xã. Những hình thức tập hợp quần chúng rộng rãi thích hợp với điều kiện hoạt động bí mật như "ngũ gia liên bảo", "thập gia liên bảo" được phát triển ở nhiều nơi. Các cơ quan Đảng, chính quyền, các ngành, giới của tỉnh cũng tích cực tinh giảm biên chế gọn nhẹ, để chuẩn bị trở vào địch hậu. Tình hình phong trào tuy có nhiều khó khăn nhưng Đảng bộ đã bắt đầu chuyển hướng chỉ đạo, duy trì cơ sở là chủ yếu. Sau Chiến dịch Quang Trung đến trước Chiến dịch Hoà Bình, cơ quan lãnh đạo Huyện uỷ Nghĩa Hưng đã chuyển về miền trung huyện. Sáu xã miền trung huyện đã dần dần làm chủ về ban đêm. Tuy nhiên, một số chủ trương chỉ đạo khi truyền đạt xuống dưới đã bị đơn giản hoá. Một số khẩu hiệu trở nên vừa mơ hồ, cứng nhắc, vừa tiêu cực. Tư tưởng "êm ả và mềm dẻo", muốn xả hơi sau những đợt đấu tranh xuất hiện trong không ít người và biến tướng thành một thứ "phương châm" sai lầm có tác hại rất lớn. Nó hạn chế quân dân ta trong việc dùng vũ khí chống giặc khi điều kiện cho phép. Một số đơn vị bộ đội địa phương phân tán mỏng quá lâu, thủ tiêu đấu tranh vũ trang nên bị tổn thất đáng kể.

    Hơn hai năm địch mở rộng lấn chiếm toàn địa bàn Nam Định, cho đến Chiến dịch Hoà Bình, là thời kỳ gay go, đầy thử thách và gian khổ hy sinh trong cuộc trường kỳ kháng chiến của nhân dân Nam Định. Đi đến đâu, địch thẳng tay đàn áp, cướp bóc, tàn phá đến đó, thiết lập hệ thống cai trị hà khắc nhằm làm tê liệt phong trào kháng chiến, làm nhụt ý chí chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc của quân và dân ta. Đặc biệt là đối với sáu huyện phía nam của tỉnh, nhân dân phải chịu sự o ép căng thẳng cả về vật chất và tinh thần, có lúc tưởng chừng không vượt qua nổi.

          Thực tiễn cuộc đấu tranh đã cho thấy đây là giai đoạn diễn ra cuộc đọ sức rất gay go, ác liệt giữa ta và địch trên tất cả các mặt quân sự, kinh tế, chính trị, tư tưởng. Địch càn quét đánh phá cơ sở, "tát nước bắt cá" thì cán bộ, đảng viên "bám đất, bám dân" duy trì cơ sở, giữ vững trận địa kháng chiến. Địch lấn chiếm nơi này, quân dân ta đẩy lùi địch chỗ khác. Địch lập tề, ta phá tề trừ gian và phát triển chiến tranh du kích. Địch lừa bịp, mị dân chia rẽ lương - giáo, ta bám dân tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, củng cố ngày càng vững chắc khối đoàn kết toàn dân cho cuộc kháng chiến...

         Trong cuộc chiến đấu còn chưa cân sức, địch có ưu thế hơn ta về lực lượng, trang bị vũ khí, tiềm lực kinh tế. ở từng khu vực, có lúc lực lượng kháng chiến của ta tổn thất lớn phải tạm lùi, thậm chí có bộ phận phải "bật đất", song trong hoàn cảnh nào, cán bộ, đảng viên từ tỉnh đến cơ sở vẫn kiên trì đường lối chủ trương của Đảng, lăn lộn trong phong trào quần chúng để duy trì cơ sở, từng bước phục hồi phát triển sự nghiệp cách mạng địa phương, đồng thời giữ vững đường giao thông từ vùng tự do sang tả ngạn sông Hồng. Trong điều kiện địch chiếm đóng hoàn toàn, cả tỉnh Nam Định chỉ còn hai thôn địch chưa lập tề, chính quyền kháng chiến vẫn bí mật hoạt động ở 150 trong tổng số 178 xã. Có xã, hội tề chỉ là hình thức để che mắt, còn uỷ ban kháng chiến hành chính vẫn điều hành công việc ở địa phương. Vì vậy, không những ta vẫn đứng vững mà còn lãnh đạo nhân dân chống địch cướp phá, diệt tề, trừ gian, duy trì đẩy mạnh sản xuất, đẩy mạnh đời sống; đồng thời động viên mọi tầng lớp nhân dân đóng góp nhân tài,vật lực cho cuộc kháng chiến.

         Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến ở địa phương, Đảng bộ và tổ chức đảng cơ sở cũng còn có những sai lầm, thiếu sót như chủ quan trong việc đề phòng địch chiếm đóng; có nơi còn sơ hở sa vào âm mưu khiêu khích của địch; việc chuyển hướng chỉ đạo chiến tranh du kích, vận động nguỵ binh, công tác dân vận, đặc biệt là vận động đồng bào theo đạo Thiên Chúa có nơi làm còn yếu... Tuy nhiên, trong hoàn cảnh gay go ác liệt đó, Đảng bộ và quân dân trong tỉnh đã làm thất bại một bước âm mưu "Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", đặc biệt là chính sách chia rẽ lương - giáo của giặc. Khối đoàn kết lương, giáo được củng cố, đồng bào lương cũng như giáo đồng lòng hướng theo cách mạng, nuôi dưỡng bảo vệ cán bộ, ủng hộ kháng chiến.

          Qua thực tiễn đấu tranh gian khổ, Đảng bộ được rèn luyện, đội ngũ đảng viên được sàng lọc và trưỏng thành, hầu hết đảng viên, cán bộ tận tuỵ, dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng. Đảng bộ cũng đã rút ra nhiều kinh nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân, xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích; về vận động và phương châm đấu tranh từng vùng..., từng bước đưa cuộc kháng chiến ở địa phương đi lên vững chắc.

VII. TIẾP TỤC CỦNG CỐ VÀ MỞ RỘNG KHU DU KÍCH, ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH TRONG VÙNG ĐỊCH TẠM CHIẾM

Theo phương hướng chiến lược được đề ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ hai (27-9 đến 5-10-1951) đã đề ra ba nhiệm vụ lớn để tiếp tục đưa cuộc kháng chiến kiến quốc đến thắng lợi:

          - Tiêu diệt nhiều sinh lực địch, tiến tới giành ưu thế quân sự, phá kế hoạch phòng ngự của địch ở trung du Bắc Bộ.

          - Phá tan kế hoạch "Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của địch.

          - Củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, giáo dục tư tưởng kháng chiến lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân bằng chăm lo cải thiện đời sống, xây dựng căn cứ địa và củng cố hậu phương để phục vụ tiền tuyến, phục vụ kháng chiến.

Giải phóng Đông Biên huyện Hải Hậu, ngày 4 tháng 6 năm 1954.
Giải phóng Đông Biên huyện Hải Hậu, ngày 4 tháng 6 năm 1954.

          Hội nghị còn ra Quyết nghị về "Nhiệm vụ và phương châm công tác trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích".

          Hội nghị chỉ rõ: Tuỳ theo so sánh lực lượng giữa ta và địch, tuỳ theo hoàn cảnh từng nơi, từng lúc, cân nhắc lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài mà lãnh đạo nhân dân dùng mọi hình thức đấu tranh thích hợp từ thấp lên cao, hợp pháp hay không hợp pháp, chính trị, kinh tế và vũ trang chống lại giặc Pháp, can thiệp Mỹ và tay sai. Nghị quyết còn đề ra phương châm, nhiệm vụ cụ thể cho từng vùng: Vùng tạm chiếm thì xây dựng và phát triển cơ sở đấu tranh chính trị và kinh tế là nội dung chính; tích cực chuẩn bị lực lượng đón thời cơ; khi có điều kiện thì lãnh đạo nhân dân chuyển lên đấu tranh vũ trang. Ở vùng du kích thì đấu tranh vũ trang là chính, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và kinh tế; dùng mọi hình thức để lãnh đạo nhân dân đấu tranh với địch, tiến tới mở rộng vùng du kích và xây dựng căn cứ du kích.

          Nghị quyết về nhiệm vụ và phương châm công tác trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích là sự đúc kết một cách sâu sắc những kinh nghiệm xương máu đấu tranh trong vùng địch hậu và chỉ ra phương hướng đấu tranh linh hoạt, đúng đắn cho các địa phương.

          Ngày 9-11-1951, Đờlát Đờ Tátxinhi tập trung 20 tiểu đoàn bộ binh cơ động chiến lược, có đủ cơ giới, pháo binh, máy bay mở chiến dịch đánh chiếm Hoà Bình. Đây là cố gắng lớn của địch từ sau thất bại của chúng ở Chiến dịch Biên giới. Âm mưu của địch là kéo bộ đội ta ra nơi chúng đã chuẩn bị sẵn để tiêu diệt, nhằm giành lại quyền chủ động đã mất trên chiến trường Bắc Bộ; chặn đường tiếp tế vận chuyển của ta giữa Việt Bắc và Trung Bộ; đồng thời gây một tiếng vang để tranh thủ thêm viện trợ Mỹ và củng cố thêm tinh thần quân đội chúng.

          Trung ương Đảng ta nhận định đây là cơ hội tốt để tiêu diệt sinh lực địch và chủ trương tranh thủ tiêu diệt địch trên mặt trận Hoà Bình; đồng thời nhân sơ hở, đưa bộ đội chủ lực vào vùng địch hậu phối hợp với quân dân các địa phương mở rộng các khu du kích và căn cứ du kích.

          Cũng trong thời gian này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích phối hợp với nhau chặt chẽ để đánh bại kế hoạch Thu - Đông của giặc Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:

"Trước kia, ta phải lừa địch ra mà đánh.

Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là cơ hội rất tốt cho ta".

          Thực hiện chủ trương đó, Tỉnh uỷ Nam Định quyết định khẩn trương đẩy mạnh hoạt động quân sự, tích cực phá tề, phục hồi và phát triển cơ sở mọi mặt, mở khu du kích và căn cứ du kích.

          Đúng với dự đoán tình hình, địch phải thu gom lực lượng ứng chiến tung ra chiến trường Hoà Bình, nên quân chiếm đóng trên địa bàn Nam Định cũng bị dàn mỏng, sô lính Âu - Phi còn lại rất ít. Những cuộc càn quét của địch giảm hẳn. Bên cạnh những thuận lợi đó, chúng ta cũng còn những khó khăn lớn: ở một số nơi bị địch chiếm đóng lâu, cơ sở chính trị của ta yếu, công tác tư tưởng và tổ chức gặp không ít trở ngại, phức tạp. Đặc biệt là với sáu huyện phía nam của tỉnh, qua hơn hai năm phải chịu hậu quả của những cuộc khủng bô', tàn sát đẫm máu của địch. Một bộ phận nhân dân còn đang hoang mang, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, xã bị tổn thất hao mòn. Đại đội 91, đơn vị chủ công của tỉnh chỉ còn 50 người, hầu hết là chiến sĩ mới. Trong khi đó bộ đội chủ lực còn đang tập trung đánh địch ở Hà Nam chưa về hỗ trợ được. Nhưng đáng lưu ý hơn là những vấn đề về tư tưởng. Một số cán bộ, đảng viên chưa nhận thức rõ thời cơ chung, còn tư tưởng ỷ lại, chờ đợi hoạt động của bộ đội chủ lực, thiếu chủ động tiến công địch; một số vẫn bị phương châm "êm ả, mềm dẻo", chi phối và giữ thái độ dè dặt, không dám hoạt động mạnh, thậm chí còn ngại đấu tranh vũ trang. Do đó suốt từ trung tuần tháng 11 đến trung tuần tháng 12-1951, nhiều địa bàn vẫn chưa đẩy mạnh được hoạt động, khôi phục cơ sở và phong trào như chủ trương tỉnh đề ra.

    Tỉnh uỷ đã có Chỉ thị bổ khuyết kịp thời cho các cấp, các ngành, phê phán tư tưởng dè dặt, ỷ lại trông chờ vào bộ đội chủ lực; xác định tinh thần chủ động, tranh thủ thời cơ đẩy mạnh các mặt hoạt động. Lực lượng vũ trang địa phương phải tập trung đánh địch, phá tề ác, tề vũ trang, nhằm phục hồi và đẩy mạnh cơ sở.

          Tới đợt 2 của Chiến dịch Hoà Bình (từ 10-12-1951 đến 31-1-1952) trên mặt trận chính, địch bị tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực và lâm vào thế nguy khốn. Thực hiện chủ trương của Trung ương, nhiều tỉnh địch hậu của Liên khu III hoạt động mạnh, mở được nhiều khu căn cứ rộng lớn.

          Thực hiện chủ trương đó, đêm 19-12-1951, sau khi diệt một số vị trí và mở khu du kích tỉnh Hà Nam thắng lợi, Trung đoàn 64 đã chuyển vào ba huyện phía bắc tỉnh Nam Định hoạt động. Đảng uỷ Mặt trận nhận định: các vị trí giặc ở đây đều tương đối kiên cố, quân ta tuy đang trên đà thắng lợi, bộ đội phấn khởi, tin tưởng, hăng hái lập công nhưng nếu đánh theo chiến thuật công kiên sẽ mau bị giảm sức chiến đấu, ảnh hưởng đến tác chiến liên tục và lâu dài, do đó đi đến quyết định trước mắt tập trung vào việc phá tề, diệt dõng, chống càn quét là chính rồi mới đẩy mạnh tác chiến tuỳ theo điều kiện cụ thể. Mở đầu cho đợt hoạt động này là trận đánh nội ứng trại Tế Bần.

          Ở thành phố Nam Định, đêm 6-1-1952, Trung đoàn 64 do Trung đoàn trưởng Lê Ngọc Hiền chỉ huy đã cùng với các lực lượng địa phương đột nhập vào thành phố; dùng lực lượng nội công ngoại kích tiến công trại, nơi có đội Commăngđô đầu hổ chiếm đóng. Đây là đội biệt kích đầu tiên của địch ở phân khu nam đồng bằng Bắc Bộ do tên đại uý Văngđenbe chỉ huy.

          Để chuẩn bị cho trận đánh này, Thành đội Nam Định đã xây dựng được nhân mối nội ứng. Được lực lượng địa phương và cơ sở phối hợp chặt chẽ, lúc 23 giờ 15 phút quân ta làm chủ tình hình và nổ súng tiêu diệt Văngđenbe. Trận đánh giành thắng lợi giòn giã. Ta bắt gọn hơn 100 tên địch, thu 180 tiểu liên, 16 trung liên, 30 súng ngắn và 2 súng cối. Phối hợp nhịp nhàng với cuộc tấn công vào trại Tế Bần, quân ta vừa dùng loa địch vận vừa ném lựu đạn uy hiếp tinh thần ở nhiều nơi trong thành phố, làm cho chúng hoang mang không xác định rõ mục tiêu chủ yếu đành bó tay. Trận trại Tế Bần là sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa bộ đội chủ lực và quân dân thành phố Nam Định. Thắng lợi này cổ vũ tinh thần kháng chiến của nhân dân toàn tỉnh trong tình hình địch còn tạm chiếm khiến cho hoạt động của bộ đội địa phương và dân quân du kích được đẩy mạnh, cùng bộ đội chủ lực đánh đồn, tiêu hao sinh lực địch, trừ gian, phá tề tiến tới mở rộng khu du kích và căn cứ du kích trên địa bàn toàn tỉnh.

          Ở phía nam tỉnh, đêm 28-12-1951, Trung đoàn 52 từ Ninh Bình hành quân qua Nam Định cùng quân dân địa phương tiến công ba vị trí địch ở Hải Lạng, Phù Sa (huyện Nghĩa Hưng), Nam Trực (huyện Nam Trực). Tiểu đoàn 66 đánh bốt Ngoại Đê (Nam Trực) nhưng nắm tình hình địch không chắc, chuẩn bị không kỹ càng nên không tiêu diệt được bốt theo ý đồ của ta mà bộ đội thêm khó khăn. Bộ đội địa phương Nghĩa Hưng tấn công tiêu diệt vị trí dõng vũ trang Chương Nghĩa, cùng nhân dân phá tan các ban tề ở miền trung của huyện. Đại đội 91 và Đại đội 33 tiến công bốt Ngoại Đông (28-12), đánh bốt Nam Lạng, Trực Ninh (29 và 30-12) và tấn công An Lãng (Phương Định).

          Đêm 3-1-1952, Trung đoàn 9 thuộc Đại đoàn 304 đánh vị trí Ngọc Tỉnh (Nam Trực) và đêm 5-1-1952 tấn công vị trí Văn Đàn (Hải Hậu) nhưng chỉ tiêu hao được một phần sinh lực địch mà chưa tiêu diệt được hai vị trí này.

          Như vậy, từ ngày 28-12-1951 đến ngày 5-1-1952, quân dân các huyện phía nam tỉnh đã tấn công gần chục vị trí, đã tiêu hao nhiều sinh lực địch. Trừ vị trí Chương Nghĩa bị tiêu diệt, các vị trí khác vẫn tồn tại. Rút kinh nghiệm, Ban chỉ đạo kịp thời thay đổi phương châm tác chiến, chuyển sang vây điểm diệt viện, phân tán một bộ phận của bộ đội chủ lực kết hợp với dân quân du kích vũ trang tuyên truyền, phá tề trừ gian. Nhờ sự chuyển hướng đúng đắn, quân dân địa phương đã liên tiếp giành thắng lợi trong nhiều trận đánh.

          Nhằm tăng cường cho chiến trường vùng tạm chiếm, Trung đoàn 46 được điều về Nam Định cùng Trung đoàn 52 đẩy mạnh tác chiến đánh địch, hỗ trợ và vực phong trào diệt tề trừ gian trên địa bàn tỉnh. Được tăng cường thêm chủ lực, hoạt động quân sự ở Nam Định mạnh hẳn lên. Bộ đội chủ lực cùng quân dân địa phương tổ chức nhiều trận đánh có hiệu quả cao. Điển hình là trận phục kích trên đường 21 đầu tháng 1-1952.

    Sáng ngày 10-1-1952, quân ta bố trí trận địa phục kích ở xóm Thượng sát phía tây đường 21. Đúng như dự đoán, vào lúc 13 giờ 20 phút đội hình hành quân của giặc lọt vào trận địa phục kích. Các mũi tiến công của quân ta nhanh chóng làm chủ tình thế trận địa. Phối hợp với bộ đội, quân và dân các xóm vùng lân cận đã tiến hành truy bắt tù binh, thu dọn chiến trường. Trận đánh kết thúc thắng lợi, Đại đội 15 thuộc trung đoàn Âu - Phi số 2 của địch bị tiêu diệt, 46 tên bị bắt, 5 xe vận tải quân sự bị phá huỷ. Ta thu hơn 200 súng, toàn bộ quân trang, quân dụng và một hòm tiền 50.000đ Đông Dương.

          Ngày 21-1-1952, bộ đội chủ lực có sự phối hợp của quân dân huyện Trực Ninh, phục kích trên đường 21 đoạn Thần Lộ - Trực Ninh, phá huỷ 18 xe cơ giới, diệt 200 tên địch. Tiếp đó, ta vừa đánh địch vừa địch vận diệt bốt Đại Tám, bao vây bức rút bốt Liễu Đề (Nghĩa Hưng), bốt Thạch Bi (Nam Trực) làm cho địch choáng váng, hốt hoảng.

          Khi tiếng súng tiến công của bộ đội chủ lực cùng quân dân Nghĩa Hưng, Trực Ninh bùng nổ thì Đảng bộ Xuân Trưòng, Giao Thuỷ đã kịp thời lãnh đạo quần chúng nổi dậy, có sự phối hợp của bộ đội chủ lực, phá tan từng mảng lớn nguỵ quyền, phục hồi cơ sở của ta, đưa chính quyền nhân dân hoạt động công khai. Bọn nguỵ quân, nguỵ quyền phần lớn nộp sổ sách, súng ống. Bộ đội và du kích Giao Thuỷ bao vây, bức rút bốt dõng Quất Lâm và tiêu hao quân địch ở bốt Đại Đồng.

          Dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ địa phương, bộ đội chủ lực phân tán một bộ phận, phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích làm nhiệm vụ tuyên truyền vũ trang, phá tề, diệt dõng, phục hồi xây dựng cơ sở, đưa chính quyền ra hoạt động công khai. Trước uy thế vũ bão đó, hàng mảng nguỵ quân, nguỵ quyền tan rã. Phần lớn nộp sổ sách, súng ống về nhà làm ăn. Một số chạy theo giặc vào Bùi Chu hoặc lên thành phố Nam Định, cả một khu vực rộng lớn bao gồm Hải Hậu, miền trung và miền hạ Nghĩa Hưng, một phần Giao Thuỷ, Trực Ninh và toàn khu vực đường 10 thuộc Ý Yên, Vụ Bản đã được giải phóng.

          Khu du kích và căn cứ du kích mở đến đâu được củng cố đến đó. Hội nghị Tỉnh uỷ họp từ ngày 23 đến ngày 25-10- 1952 đã đề ra năm nhiệm vụ cấp bách và khẩn trương chỉ đạo các cấp thực hiện.

          Sau Hội nghị, công việc bổ sung, kiện toàn bộ đội địa phương huyện và dân quân du kích ở cơ sở được tiến hành khẩn trương. Chỉ trong thời gian ngắn, các huyện (trừ Mỹ Lộc và Nam Trực) đều xây dựng đủ ba trung đội. Phần lớn các xã đã phục hồi được các đội du kích, có đội quân số lên tới 200 đội viên và được bổ sung thêm nhiều vũ khí.

          Công tác giáo vận cũng gây được phong trào lương, giáo thân thiện nhằm đả phá thành kiến của cán bộ, nhân dân bên lương đối với đồng bào công giáo, tổ chức những đội xây dựng cơ sở trong giáo dân, tích cực tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, tách quần chúng giáo dân khỏi sự ảnh hưởng của bọn phản động.

          Trong khi bọn tề, dõng đang tan rã và hoang mang cực độ, Tỉnh uỷ đã kịp thời đặt vấn đề đẩy mạnh công tác địch vận, tăng cường cán bộ, phương tiện và huy động khả năng của mọi ngành và toàn dân tham gia công tác địch vận nhằm thúc đẩy thêm quá trình tan rã của địch. Mặt khác, đối với số tề, dõng đã trở về, các cấp từ tỉnh đến xã đã mở những lớp cải tạo ổn định tư tưởng để họ nhận rõ con đường chính nghĩa.

          Trước chiến thắng liên tiếp và dồn dập, có một số cán bộ quần chúng chưa thật tin vào thắng lợi đã nảy sinh nhiều tư tưỏng sai lệch. Tỉnh uỷ đã đặt nhiệm vụ cho các cấp uỷ phải triển khai rộng khắp công tác tư tưỏng. Việc tổ chức ăn mừng chiến thắng, những cuộc học tập tình hình nhiệm vụ, những đợt chỉnh huấn ngắn ngày đã được mở liên tục nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho đảng viên, quần chúng, động viên tinh thần hăng hái tham gia kháng chiến, chống những biểu hiện nghi ngờ chủ trương của cấp trên, chống tư tưởng lo địch càn quét khủng bố, không tin ở lực lượng của mình khi chủ lực rút đi...

          Vùng giải phóng được mở rộng, Tỉnh uỷ đã quyết định đưa các cơ quan tỉnh trở về địa phương, tổ chức lại bộ máy và lề lối làm việc cho thích hợp với hoàn cảnh mới, đảm bảo sự chỉ đạo có hiệu lực, kịp thời ứng phó với mọi diễn biến của tình hình.

          Phong trào chiến tranh nhân dân như trào dâng sóng dậy đã cuốn trôi đi phần lớn tổ chức hạ tầng của địch, làm cho nhiều vị trí quan trọng của chúng chơ vơ, cô lập trong khu du kích, tạo điều kiện cho bộ đội bao vây tiêu diệt.

    Đêm 19-2-1952, Trung đoàn 46 tiến vào nhổ bốt Ninh Cường và Thái Lãng (Trực Ninh), sau đó nhổ nốt vị trí Văn Đàn (Hải Hậu). Ngày 24-2-1952, tại Liêu Đông (Xuân Trường) quân địch từ trong đồn kéo ra lùng sục, càn quét. Chi bộ Đảng đã kịp thời lãnh đạo dân quân, du kích chặn đánh. Địch hoảng sợ bỏ chạy, quân ta bao vây chặn lối về đồn, vừa uy hiếp tinh thần, vừa kêu gọi binh lính địch đầu hàng về với nhân dân. Chính quyền địch sụp đổ. Chính quyền kháng chiến hoạt động công khai, quản lý một vùng rộng lớn từ Cát Xuyên đến Ngô Đồng. Cũng thời gian này, quân dân Xuân Trường phối hợp với bộ đội chủ lực tiêu diệt vị trí Lạc Quần, đánh sâu vào Bùi Chu, phá trại giam Lục Thuỷ, giải thoát nhiều cán bộ, bộ đội bị giam cầm ở đây.

          Được bộ đội chủ lực dìu dắt, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Khu uỷ và Tỉnh uỷ, lực lượng vũ trang địa phương Nam Định ngày càng trưởng thành và lớn mạnh; từ ba đại đội đã phát triển lên thành Tiểu đoàn 66 bao gồm bốn đại đội (C91, C77, C33 và C21). Từ khi ra đời, Tiểu đoàn 66 được nhân dân che chở đùm bọc, phối hợp tiến công địch, mở khu du kích hành lang qua địa bàn, nối vùng tự do Ninh Bình, Thanh Hoá với khu tả ngạn sông Hồng, bảo đảm cho bộ đội chủ lực phát huy khả năng tác chiến ngày một lớn hơn.

Bộ đội xung kích đột phá khẩu trong chiến dịch Tây Bắc, năm 1952.
Bộ đội xung kích đột phá khẩu trong chiến dịch Tây Bắc, năm 1952.

          Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu uỷ, bằng sự phấn đấu nỗ lực vượt bậc của quân và dân địa phương, ta đã mở được khu du kích và khu căn cứ du kích rộng lớn nối liền khu A, B Mỹ Lộc, Vụ Bản và bắc Ý Yên xuống Nam Trực, Trực Ninh, qua miền trung, miền hạ Nghĩa Hưng, đến Hải Hậu, nam Xuân Trường và Giao Thuỷ. Cả chủ lực và quân dân địa phương đã diệt và bức rút 40 vị trí Âu - Phi và bảo chính đoàn, 87 bốt dõng vũ trang (trong số 103 bốt toàn tỉnh). Riêng bộ đội địa phương và dân quân du kích đã diệt gần 800 tên, thu 236 súng trường, 15 tiểu liên, 6 trung liên, 1 đại liên, ngót 4 tấn đạn dược và một số quân trang, quân dụng. Vùng tạm chiếm của địch bị thu hẹp lại xung quanh thành phố Nam Định và thị xã Bùi Chu với bán kính từ 5 đến l0km; một phần ven sông Đáy và ven một số đường giao thông huyết mạch số 10, 21. Kể từ đây đã chấm dứt thời kỳ đen tối "Hai năm bốn tháng" (10-1949 đến 2-1952). Đó là một thắng lợi to lớn của quân dân Nam Định.

          Vượt qua được thời kỳ "Hai năm bốn tháng", mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã phải chịu đựng muôn vàn gian khổ, hy sinh, kiên trì giữ vững cơ sở ngay trong lòng địch, khi có điều kiện thì sẵn sàng chiến đấu chống lại kẻ thù. Những hành động cách mạng đó đã nói lên niềm tin sắt đá của nhân dân vào sự nghiệp kháng chiến do Đảng lãnh đạo, đồng thời khẳng định tinh thần quật khởi của quần chúng giáo cũng như lương trước hành động dã man, tàn bạo của bọn cướp nước và bè lũ tay sai bán nước. Thắng lợi đó là thành công của việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba thứ quân dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ với phong trào nổi dậy của quần chúng, làm tan rã từng mảng hệ thống chiếm đóng, bình định của địch.

          Như vậy, ngay từ khi địch mở Chiến dịch Hoà Bình, thực hiện Chỉ thị của Trung ương và của Tỉnh uỷ, quân và dân Nam Định được sự hỗ trợ của bộ đội chủ lực đã đẩy mạnh cuộc kháng chiến, phá tung ách kìm kẹp của địch. Ở khắp các mặt trận trên địa bàn của tỉnh, cả ba thứ quân đã phối hợp chặt chẽ, đánh địch ở mọi nơi, trong đó có những trận thắng lớn ở các vị trí ngay sát cơ quan đầu não của địch, tạo ra thế và lực mới có lợi cho ta cả về quân sự và chính trị. Mở rộng được khu du kích và căn cứ du kích, quân dân trong tỉnh đã căn bản phá võ âm mưu bình định, chiếm đóng rộng của địch. Ta đã giành được thế chủ động, tiến công liên tục, đẩy địch lún sâu hơn vào thế bị bao vây, uy hiếp. Những thắng lợi đó cũng đã góp phần cùng với các địa phương trong cả nước thực hiện chủ trương phối hợp với Chiến dịch Hoà Bình, căng địch ra khắp nơi mà đánh, làm cho chúng hết sức bị động, phân tán, tạo điều kiện cho chiến trường chính đánh to, thắng lớn.

VIII. CHỐNG CÀN, GIỮ VỮNG KHU DU KÍCH, BỒI DƯỠNG SỨC DÂN

    Ngày 23-2-1952, địch bỏ Hoà Bình rút chạy. Cùng với thất bại ở Hoà Bình, việc bình định của địch trong năm 1951 bị phá võ. Âm mưu của tướng Đờlát Đồ Tátxinhi định giành lại thế chủ động tiến công trên chiến trường Bắc Bộ, lập phòng tuyến Boongke để ngăn chặn quân ta tiến vào đồng bằng, lập "xứ Mưòng tự trị" và lấy lại lòng tin cho quân đội xâm lược đang thất bại. Ở mặt sau lưng địch, từng mảng lớn hệ thống đồn bốt bị phá vỡ. Hệ thống nguỵ quân, nguỵ quyền ở nhiều địa phương bị suy yếu, đứng trước nguy cơ sụp đổ.

          Tình thế đó buộc địch phải làm lại công việc "bình định" mà chúng đã thực hiện một phần trong năm 1951. Chúng lại mang quân chủ lực về càn quét đồng bằng, tìm diệt bộ đội chủ lực của ta, khủng bố nhân dân, vơ vét tài sản, bắt thanh niên bổ sung quân số thiếu hụt, dựng lại bộ máy nguỵ quyền.

Bộ đội ta hành quân tiến vào Tây bắc năm 1952.
Bộ đội ta hành quân tiến vào Tây bắc năm 1952.

          Ngay trước khi Chiến dịch Hoà Bình kết thúc, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh đã ra Chỉ thị vạch rõ: "Giặc Pháp đang lúng túng to, nhưng sức địch còn mạnh", cần phải "sẵn sàng chống lại tất cả cuộc càn quét lớn nhỏ của địch mà bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra". Liên khu uỷ III cũng có chỉ thị cho các tỉnh tích cực chuẩn bị đối phó với hành động trả đũa của địch.

          Thi hành chỉ thị của Trung ương và của Liên Khu uỷ III, Tỉnh uỷ đã Chỉ thị cho các địa phương phải tăng cường đấu tranh mọi mặt với địch; tích cực chuẩn bị chống càn quét, giữ vững khu du kích. Trên cơ sở đó củng cố Đảng bộ về mọi mặt, phục hồi và phát triển các đoàn thể quần chúng, nhất là ở nơi tập trung giáo dân. Các cấp uỷ đảng đã tích cực giáo dục, tuyên truyền để cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ tư tưởng chỉ đạo của Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh là: Phải thấy rõ âm mưu địch, không được chủ quan; giữ vững thế tiến công để củng cố, phát triển chiến tranh du kích và phong trào đấu tranh của nhân dân vùng địch hậu; phải đề phòng địch phản ứng quyết liệt để giành lại những vùng chúng mất quyền kiểm soát.

          Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, các ban Huyện uỷ khẩn trương xúc tiến hoạt động mọi mặt để ứng phó kịp thời và có hiệu quả với âm mưu càn quét mở rộng vùng chiếm đóng của địch.

          Đúng như nhận định của Trung ương, sau thất bại ở Hoà Bình, Salăng vội vã đem đội quân thua trận quay về càn quét vùng đồng bằng, nhằm đẩy bộ đội chủ lực của ta ra khỏi các địa bàn đang đứng chân; phá khu du kích hòng tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta ở các địa phương. Đó là cách chúng gỡ thế bị bao vây, củng cố thế chiếm đóng, bình định, trấn an tinh thần binh lính đang sa sút; tiếp tục vơ vét của cải, càn bắt thanh niên để bổ sung quân số đang thiếu hụt.

Thu - Đông năm 1952, địch tăng cường hoạt động trên sông Đáy nhằm ngăn cản chủ lực thâm nhập địch hậu, ra sức củng cố vị trí, tăng cường tuần tiễu, sục sạo các đường 10, 21 để bảo vệ việc vận chuyển. Song, một số vị trí tiếp giáp khu du kích vẫn bị ta bao vây uy hiếp. Địch phải đưa ba tiểu đoàn cơ động về càn quét chớp nhoáng một phần huyện Nam Trực, Trực Ninh.

          Tại Xuân Trường, ngày 24-8-1952, du kích phối hợp chặt chẽ với Tiểu đoàn 706 thuộc Trung đoàn 64, Đại đoàn 320 đã độn thổ phục kích tiểu đoàn chủ lực nguỵ BVN3 ở đường 51 thuộc khu Bích Câu, Hội Khê, Trà Thượng (nay thuộc xã Xuân Hùng). Sau một ngày kiên trì phục kích các thôn Bích Câu, Hội Khê, Trà Thượng ta đã xoá sổ 2 đại đội chủ lực nguỵ thuộc Tiểu đoàn số 3, diệt 80 tên, bắt sống 89 tên địch trong đó có viên Tiểu đoàn trưởng và thu hồi toàn bộ vũ khí. Từ khi mở khu du kích, ta có sự phối hợp nhịp nhàng giữa bộ đội chủ lực và dân quân du kích địa phương. Chiến thắng Bích Câu đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kháng chiến của quân dân trong tỉnh khi quân địch đang tập trung mọi nỗ lực để càn quét đánh phá khu du kích và căn cứ du kích.

          Để đối phó với những âm mưu, thủ đoạn mới của thực dân Pháp, cùng với việc tổ chức lực lượng, đề ra phương án tác chiến, sẵn sàng chống các cuộc càn lớn, nhỏ của địch và thường xuyên bao vây uy hiếp tiêu diệt địch ngay ở các đồn bốt của chúng, Tỉnh uỷ còn quan tâm chỉ đạo toàn diện hoạt động trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế - xã hội. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba (4- 1952) và chủ trương chỉnh Đảng của Trung ương, Tỉnh uỷ Nam Định mở nhiều lớp chỉnh huấn "rèn cán" cho cán bộ, học tập kiểm thảo theo Điều lệ Đảng và "bình công phân loại" đảng viên. Đợt chỉnh Đảng nhằm làm cho cán bộ, đảng viên thông suốt quan điểm kháng chiến lâu dài và tự lực cánh sinh, khắc phục tư tưởng hữu khuynh trong công tác mặt trận, chính quyền và trong việc thực hiện chính sách ruộng đất; nâng cao tinh thần tự phê bình và phê bình, tăng cường đoàn kết và nhất trí trong Đảng về tư tưởng và hành động, sửa đổi tác phong công tác. Những lớp chỉnh huấn, học tập cho cán bộ, đảng viên được tổ chức và trở thành đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, có ý nghĩa thiết thực. Tuy cách làm còn có chỗ máy móc, thiếu toàn diện, nhưng những đợt chỉnh huấn học tập này thực sự đã góp phần nâng cao nhận thức cách mạng, củng cố quan điểm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, tự lực cánh sinh; khắc phục tư tưởng hữu khuynh trong việc thi hành các chính sách về ruộng đất, thuế nông nghiệp, chính sách tôn giáo, củng cố đoàn kết nội bộ, đẩy mạnh tinh thần công tác, chiến đấu cho toàn thể cán bộ, đảng viên. Đây là lần đầu tiên, các Đảng bộ tiến hành rộng rãi, quy mô, có hệ thống công tác xây dựng Đảng về mặt tư tưởng.

    Trong không khí hồ hởi phấn khởi, các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia các đoàn thể kháng chiến. Các tổ chức Liên Việt, Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội ở những nơi bấy lâu còn yếu, nay cũng được củng cố. Thời gian này các cấp uỷ đảng rất quan tâm tới việc giác ngộ, tuyên truyền chính sách tôn giáo với đồng bào có đạo, nhất là vùng có đông đồng bào theo đạo Thiên Chúa. Để chống lại âm mưu của bọn phản động đội lốt tôn giáo xuyên tạc chính sách tôn giáo và chủ trương đoàn kết lương giáo của Đảng ta, trung tuần tháng 2- 1952 tỉnh Nam Định đã tổ chức hội nghị "Những ngưòi công giáo kháng chiến địa phận Bùi Chu". Trong số 300 đại biểu tới dự có 6 vị linh mục. Đồng chí Chủ tịch uỷ ban kháng chiến tỉnh đã đến dự khai mạc. Hội nghị đã thảo luận các vấn đề: âm mưu thâm độc lợi dụng Thiên Chúa giáo của thực dân Pháp, tội ác của chúng đối với nhân dân vùng tạm bị chiếm; chính sách tự do tín ngưỡng của Chính phủ; lượng khoan hồng của Chính phủ và Hồ Chủ tịch đối với những người lầm đường. Hội nghị có nhiều đại biểu là những ngưòi bị mất chồng, mất con vì giặc Pháp và bọn tay sai. Hội nghị ra lời kêu gọi đồng bào theo đạo Thiên Chúa trong toàn tỉnh hãy tham gia tích cực hơn nữa vào sự nghiệp kháng chiến, làm tròn bổn phận của người giáo dân "yêu nước, kính Chúa". Đồng thời Hội nghị biểu thị lòng tin tưởng sắt đá vào Chính phủ kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.

          Sau Hội nghị công giáo, Tỉnh uỷ đề ra "ba tháng vận động lương - giáo đoàn kết", đưa cán bộ xuống từng họ, xứ đạo làm công tác vận động giáo dân, thực hiện "cải giáo hoàn lương" - đưa đồng bào bên lương trước đây bị bọn phản động cưỡng ép tòng giáo trở lại, đưa các tượng Phật trở về các chùa cũ; tổ chức cho đồng bào công giáo tố cáo tội ác của giặc Pháp và tay sai. Chính quyền nhân dân đã kiên quyết bắt một số tên phản động đầu sỏ như: Lương Huy Hân, tên Vinh, tên Đức và gọi lên răn đe một số tên khác, làm cho chúng phải chùn lại không dám chống phá trắng trợn như trước. Những việc làm đó đã giúp đồng bào giáo hữu hiểu rõ hơn âm mưu thâm độc của bọn phản động, bước đầu tách quần chúng giáo dân khỏi ảnh hưởng của bọn phản động khoác áo thầy tu. Việc thực hiện những chính sách đem lại quyền lợi thiết thực cho nông dân lao động đã làm cho đồng bào giáo dân ngày càng hiểu rõ hơn mục tiêu của cuộc kháng chiến và phần đông đã bước đầu ổn định về tư tưởng. Vấn đề hận thù giáo - lương giảm dần, bà con giáo cũng như lương đoàn kết bên nhau đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống. Do vậy, ở vùng tập trung đồng bào theo đạo Thiên Chúa, các tổ chức quần chúng đã có bước phát triển khá nhanh.

          Sau mùa nước lũ, ở nhiều xã ven sông, nhân dân đã đắp bồi lại những quãng đê sạt lở và đấu tranh buộc địch phải cho lấp nhiều hố công sự do chúng đào từ trước ở phần đê. Nhân dân xã Mỹ Phúc, Mỹ Trung (huyện Mỹ Lộc, Nam Định) phối hợp với các xã Nhân Hoà, Nhân Hậu (huyện Lý Nhân, Hà Nam) đòi địch phải cho đắp lại đoạn đê Hữu Bị, là đoạn đê rất xung yếu đối với một vùng rộng lớn ở hai huyện. Lúc đầu địch khăng khăng không chịu, song trước sức đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, chúng buộc phải để cho ta đắp lại đoạn đê và phải trả công cho dân công đào đắp.

          Mấy năm chiến tranh lan rộng, phần lớn các vùng nông thôn trong tỉnh bị tàn phá nặng nề, nhiều ruộng vườn bị hoang hoá. Sau khi ta mở khu du kích, mùa màng vẫn bị thiệt hại do bão, lụt và hạn hán. Trước tình hình đó, Đảng bộ kịp thời có nhiều biện pháp đẩy mạnh sản xuất. Nhân dân tích cực tăng diện tích trồng trọt, phục hồi canh tác những vùng đất trắng mới giành lại được, phục hoá hàng nghìn mẫu ruộng bị bỏ hoang nhiều vụ, đắp và sửa chữa gần 200km đê, sửa và xây lại hàng chục cống, đắp thêm nhiều đập và đường "khuyến nông". Tỉnh đã chủ động tìm nguồn đưa nhiều trâu, bò về cung cấp thêm sức kéo cho nông dân. Phong trào chăn nuôi tăng gia sản xuất và tiết kiệm phát triển ở khắp nơi. Các cơ quan, trường học cũng hưởng ứng tăng gia sản xuất. Các lĩnh vực kinh tế khác cũng được đẩy mạnh. Sau khi thành lập khối kinh tế, tài chính ở Nam Định một số cơ sở của ngành mậu dịch quốc doanh bắt đầu được xây dựng. Các mặt hàng như muối, chiếu cói, hàng thủ công truyền thống được khơi luồng đưa ra vùng tự do hoặc chuyển vào vùng địch tạm chiếm. Do đó, giá cả dần dần ổn định hơn. Tiền Việt Nam trước đây mới chiếm lĩnh 50% thị trường trong tỉnh, nay lên tới 90%, đẩy lùi tiền địch một bước đáng kể.

          Để bồi dưỡng lực lượng kháng chiến hơn nữa, trong năm 1952 các địa phương trong tỉnh đã tiến hành cấp lại công điền cho cả nam, nữ; tạm giao công thổ cho bần cố nông, duyệt lại những ruộng bán công, bán tư. Trong quá trình thực hiện chính sách ruộng đất, chính quyền đã có sự ưu đãi đối với gia đình bộ đội, thương binh, liệt sĩ, nhằm động viên tinh thần kháng chiến của nhân dân. Ta còn chia "treo giò" cho nguỵ quân đang trong hàng ngũ địch nhằm lôi kéo những phần tử lầm đường quay về với Tổ quốc. Chính quyền nhân dân còn tạm giao, tạm cấp hàng vạn mẫu ruộng của địa chủ nhà chung vắng chủ cho nông dân nghèo; thực hiện giảm tô hàng vạn mẫu ruộng của địa chủ phát canh cho tá điền.

    Đấu tranh giảm tô, giảm tức nhằm bảo đảm quyền lợi cho nông dân, bồi dưỡng sức dân trong điều kiện đất nước còn chiến tranh, nhiều ruộng đất còn nằm trong tay địa chủ là vấn đề hết sức gay go, phức tạp. Vì vậy, ngay sau khi mở khu du kích, Tỉnh uỷ đã đẩy mạnh việc thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức trong khu du kích và căn cứ du kích. Từ tình hình cụ thể ở địa phương, ngày 3-11-1952, Tỉnh uỷ Nam Định lại ra Chỉ thị số 13/CT-TU, hướng dẫn và quy định "Hướng lãnh đạo giảm tô, giảm tức nhằm vào vùng du kích và căn cứ du kích, chú trọng nơi có đồng bào theo đạo Thiên Chúa. Còn ở vùng tạm bị chiếm thì tiến hành tuỳ điều kiện có thể, nhưng thuyết phục chủ điền để họ giảm là chính và phải nắm vững phương châm bảo toàn cơ sở, không bộc lộ lực lượng". Chỉ thị còn quy định: "Toàn Đảng bộ phải lãnh đạo quần chúng đấu tranh giảm tô, giảm tức... không được khoán trắng cho chính quyền hoặc Nông hội; phải huy động toàn thể lực lượng quân, chính, dân, Đảng; lãnh đạo giảm tô là công việc của phụ nữ, của thanh niên, của uỷ ban, của huyện đội, xã đội, của hết thảy mọi ngành". Bản chỉ thị còn đề ra một số phương châm và biện pháp tiến hành như: tổ chức học tập chính sách ruộng đất trong toàn Đảng bộ, trong chính quyền và nhân dân; tiến hành kiểm điểm trong cán bộ các ngành, các giới về việc lãnh đạo thi hành giảm tô, giảm tức trước đây; phát động quần chúng đấu tranh kết hợp với những biện pháp chính quyền; kết hợp việc lãnh đạo đấu tranh với việc củng cố Nông hội, nhất là ở vùng có đồng bào theo đạo Thiên Chúa.

          Những chủ trương đúng đắn, tích cực và kịp thời đó của Tỉnh uỷ đã góp phần đẩy mạnh việc thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, Chính phủ, đem lại những quyền lợi thiết thân cho nông dân trong giai đoạn này và làm tiền đề cho việc thực hiện những chính sách về kinh tế - xã hội trong các thời kỳ tiếp theo. Năm 1952, mặc dù chiến tranh còn ác liệt, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhưng nhân dân ở các địa phương đã cố gắng ổn định đời sống và tích cực đóng góp nghĩa vụ thuế nông nghiệp với Nhà nước.

          Công tác y tế, giáo dục cũng được các cấp uỷ đảng hết sức quan tâm. Nhiều lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ y tế được tổ chức bổ sung cho ngành và cơ sở. Các địa phương đều chú ý phòng bệnh, chữa bệnh cho nhân dân; mở thêm các nhà hộ sinh, tổ chức phát thuốc, tiêm phòng dịch nên đã kịp thời dập tắt được bệnh đậu mùa đang đe doạ tính mạng nhiều trẻ em và phòng ngừa được một số nạn dịch khác.

          Công tác giáo dục phổ thông và xoá nạn mù chữ được đẩy mạnh ở các địa phương. Mặc dù ở nhiều nơi địch vẫn mở những đợt hành quân càn quét, máy bay địch vẫn bắn phá và còn rất thiếu về trường lớp, sách vở, giáo viên... Cán bộ ngành giáo dục vẫn vượt mọi khó khăn để tổ chức các lớp học phổ thông và các lớp học bổ túc cho các em và cán bộ, nhân dân.

          Ở một số nơi sát đồn bốt địch, có khó khăn, phức tạp hơn về mở trường lớp, nhưng chính quyền vẫn tìm mọi cách khắc phục để tồn tại và duy trì chương trình học tập cho học sinh. Sau khai giảng năm học mới (9-1951), các trường phổ thông quốc lập đã có: 1 trường phổ thông cấp II (ở Ninh Cường), 125 trường cấp I. Các trường dân lập và tư thục gồm có 2 trường cấp II và 213 trường cấp I. Các trường phổ thông có 712 giáo viên và 24.379 học sinh. Trường cấp II Ninh Cường là trường phổ thông cấp II đầu tiên do tỉnh mở. Trường thu hút cả học sinh ở thành phố Nam Định về học. Nhiều thanh niên, học sinh trong vùng bị địch chiếm đã ra theo học ở khu căn cứ. Các lớp bình dân học vụ mở rộng trong toàn tỉnh. Với đội ngũ giáo viên ở cơ sở làm nòng cốt, sự tham gia nhiệt tình của cán bộ, thanh niên có học vấn nhất định, các lớp bình dân học vụ đã len lỏi vào khắp các thôn xóm với quy mô và hình thức tổ chức linh hoạt, sáng tạo, thu hút hàng vạn người tham gia học tập. Việc thực hiện nền giáo dục dân chủ nhân dân góp phần nâng cao dân trí cho thanh thiếu niên, đồng thời tham gia xoá bỏ các tàn tích văn hoá, giáo dục nô dịch của thực dân Pháp.

          Phong trào văn nghệ quần chúng với những hình thức gọn nhẹ thích hợp như: thơ, ca, hò, vè, kịch ngắn, các điệu múa, phát triển rộng rãi góp phần xây dựng nếp sống lành mạnh, vui tươi trong các vùng căn cứ du kích.

          Thời gian này, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ở thành thị cũng phát triển mạnh, ở thành phố Nam Định, công nhân một số xí nghiệp đấu tranh chống dãn thợ, phạt thợ, đòi tăng lương vì phải làm thêm giờ và giá cả sinh hoạt cao. Những người thợ đạp xích lô đấu tranh chống nộp thuế "quốc phòng" của nguỵ quyền. Tiểu thương chợ Rồng chống địch bắt dỡ cửa hàng, chống tăng thuế chợ. Học sinh có phong trào chống bắt lính. Một số nam học sinh đã trốn ra vùng tự do; nữ sinh chống lệnh bắt cắt tóc ngắn, mặc váy đầm...

    Tới những tháng cuối năm 1952, trên địa bàn Nam Định, cuộc đấu tranh giữa ta và địch vẫn diễn ra quyết liệt trên mọi lĩnh vực. Địch cố giành thế chủ động, ráo riết thực hiện chính sách "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Ngược lại, ta vẫn bảo vệ và mở rộng khu du kích, không những tiêu hao, tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch mà còn chăm lo bồi dưỡng lực lượng lớn mạnh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

          Tháng 9-1952, thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, phát huy thắng lợi Chiến dịch Hoà Bình, thực hiện phương châm tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tìm nơi sơ hở của địch mà đánh, quân ta mở cuộc tiến công vào Tây Bắc. Mục tiêu của chiến dịch này là tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai và xây dựng căn cứ địa Tây Bắc; đồng thời vẫn để một bộ phận chủ lực đi sâu vào sau lưng địch, phát triển chiến tranh du kích, mở rộng thêm các khu du kích.

          Để phá sự chuẩn bị chiến dịch của ta, từ đầu tháng 10- 1952, tướng Salăng đã sử dụng một lực lượng lớn các binh đoàn cơ động mạnh, có máy bay, xe lội nước, pháo lớn yểm trợ, đánh vào khu vực Hà - Nam - Ninh.

Lực lượng dân công vận chuyển vũ khí, lương thực cho chiến dịch Hòa Bình năm 1951-1952.
Lực lượng dân công vận chuyển vũ khí, lương thực cho chiến dịch Hòa Bình năm 1951-1952.

          Ngay sau khi mở rộng được khu du kích, Tỉnh uỷ Nam Định nhận định, địch sẽ càn quét lớn nhằm giành lại những vùng đất bị mất và gỡ thế bị uy hiếp cho những vùng chúng còn đóng ở Nam Định. Vì vậy Tỉnh uỷ chủ trương phát động rộng rãi phong trào nhân dân chuẩn bị chống càn. Các lực lượng vũ trang chuẩn bị mọi mặt cho chiến đấu. Các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chuẩn bị mọi hoạt động để trong điều kiện có thể rất gay go, ác liệt vẫn bám đất, bám dân, bảo vệ khu căn cứ với hiệu quả cao nhất. Nhân dân tích cực cất giấu tài sản, lương thực và chuẩn bị mọi mặt phục vụ và tham gia chiến đấu.

          Vừa chuẩn bị chống càn, quân và dân ở các địa phương vừa chủ động phối hợp với bộ đội chủ lực tiếp tục bao vây, uy hiếp bức địch rút một loạt vị trí như: Nam Trực, Ngọc Tỉnh (Nam Trực), núi Già (Ý Yên) và tiêu diệt một số vị trí khác là Lạc Quần (Xuân Trường), Vọc (Nam Trực), núi Bô (Ý Yên).

          Bước vào Chiến dịch Tây Bắc, quân cơ động của địch bị hút lên chiến trường chính. Vùng chiếm đóng của chúng có nhiều sơ hở. Quân dân Nam Định tiếp tục tiến công các vị trí: Liêu Đông (Xuân Trường), Vô Tình (Trực Ninh), tiêu hao nặng đồn Cổ Ra (Nam Trực), An Cư (Xuân Trường) và diệt viện trên đường Vàng, đánh tan một tiểu đoàn Commăngđô, buộc địch phải rút các vị trí Cổ Ra, Thanh Khê, Tân Thành (Nam Trực).

          Trước tình thế đó, cuối tháng 11-1952, thực dân Pháp buộc phải rút quân cơ động từ Tây Bắc về Nam Định và tổ chức cuộc càn lớn lấy tên là Bơrơtanhơ vào các khu căn cứ du kích phía nam tỉnh. Những tên cầm đầu đội quân viễn chinh Pháp và nguỵ quân như Salăng, Nguyễn Văn Hinh được điều về trực tiếp bày binh bố trận cho cuộc càn này. Một số tên phản động gian ác bỏ trốn khi ta mở khu du kích cũng theo địch trở về, cùng với một số bộ máy nguỵ quyền cấp huyện, xã đã được lắp sẵn, để khi địch càn tới đâu, chúng nắm lại quyền ở đó, nhằm khép kín chương trình bình định của thực dân Pháp trong cuộc hành quân này.

          Để chuẩn bị cho cuộc càn Bơrơtanhơ, bọn phản động ở Bùi Chu đưa "quân thứ hành chính lưu động" của Giao Thuỷ về Ngô Đồng, Lạc Quần và Hải Hậu, tập hợp những tên tề lưu vong, giao nhiệm vụ thu lượm tình hình, tung tin địch càn để gây hoang mang trong nhân dân. Một số nơi, ban đêm, bọn phản động có vũ trang vào đe doạ cán bộ. Chúng tổ chức đường dây bí mật, thúc ép một số thanh niên theo đạo Thiên Chúa lên Bùi Chu. Nhiều nhà xứ ngấm ngầm chuẩn bị lương thực, thực phẩm... Ở vòng ngoài, thực dân Pháp thường xuyên cho máy bay, tàu chiến thám thính thăm dò, nhất là vùng ven biển. Chúng đổ bộ lên Gót Chàng hai lần để điều tra địa hình và dò la sự phản ứng của ta.

          Phán đoán tình hình địch có thể càn lớn vào một số huyện phía nam, Tỉnh uỷ Nam Định chỉ thị cho các địa phương, các ngành tích cực chuẩn bị, thống nhất sự chỉ đạo từ tỉnh tới xã; kiểm tra lại kế hoạch chống càn. Tuy nhiên ta cũng chưa đánh giá hết được quy mô và khả năng của địch trong cuộc càn sắp tới.

          Đầu tháng 12, thực dân Pháp tập trung 21 tiểu đoàn thuộc 5 binh đoàn cơ động, 50 khẩu pháo lớn, 550 xe cơ giới các loại, 22 máy bay, 8 tàu chiến càn quét liên tiếp vào mấy huyện phía nam cho tới cuối tháng. Khi địch mới càn đến Nam Trực, Trực Ninh, quân dân ta tập trung lực lượng nhằm bẻ gẫy từng cánh quân của chúng. Bộ đội chủ lực đánh tập kích ở Duyên Hưng, Bằng Hưng (Nam Trực), cầu Gai (Trực Ninh), diệt nhiều đại đội địch ở Bái Dương (Nam Trực), Nam Lạng, Cát Chử (Trực Ninh), hạn chế một phần bước tiến của chúng. Nhưng sau đó, địch tăng cường đánh phi pháo và mở những đợt tiến công ồ ạt. Bộ đội chủ lực của ta phải tạm lánh để bảo toàn lực lượng. Sau hai ngày, địch tiến đánh Xuân Trường, chúng đã càn đi, quét lại toàn huyện, rồi đánh xuống huyện Giao Thuỷ, Hải Hậu, miền hạ Nghĩa Hưng, sau đó chuyển lên Nam Trực, Trực Ninh nhằm bao vây "cất vó" bộ đội chủ lực của ta.

    Mặc dù cuộc càn quét của địch diễn ra ác liệt, nhưng đại bộ phận cán bộ, đảng viên đã lăn lộn bám đất, bám dân, kiên quyết chống càn. Các đơn vị vũ trang tuyên truyền gan dạ luồn địch, giữ vững tinh thần quần chúng, trấn áp phản động không cho chúng rảnh tay hành động. Nhân dân ở các địa phương đã cùng với dân quân du kích tích cực làm nhiệm vụ hậu cần, tiếp tế đầy đủ cho hai trung đoàn bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương; đồng thời tìm mọi cách bảo vệ an toàn cho trên 300 thương binh... Đó là một trong những đóng góp lớn của nhân dân trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện ở địa phương.

Giải phóng Đông Biên, huyện Hải Hậu, ngày 4-6-1954.
Giải phóng Đông Biên, huyện Hải Hậu, ngày 4-6-1954.

          Song do chưa nắm chắc âm mưu thủ đoạn của địch và khả năng đánh lớn của chúng, nên khi cuộc càn diễn ra rộng lớn thì ta tỏ ra lúng túng. Trong lúc đó, lực lượng vũ trang và bán vũ trang ở địa phương tuy đã được bổ sung, phát triển nhưng chưa được củng cố và còn ít kinh nghiệm tác chiến; việc kết hợp ba thứ quân thiếu chặt chẽ, vận dụng phương châm phân tán, tập trung không kịp thời, cách đánh du kích chưa được vận dụng triệt để. Quá trình tổ chức chiến đấu, một trung đoàn chủ lực, hầu như không liên hệ được với tỉnh và không tác chiến. Một trung đoàn khác vẫn tập trung theo tiểu đoàn và thụ động chờ địch; sau đó lại nặng về bảo toàn lực lượng, luồn tránh đơn thuần, nên tuy lúc đầu có đánh được hai trận ở Nghĩa Xá, Sa Đê - Thái Lãng, diệt được bốn đại đội địch nhưng lực lượng bộ đội cũng bị tiêu hao. Bộ đội địa phương huyện có phân tán, dìu dắt du kích chiến đấu, nhưng do địch càn quét ồ ạt, việc đối phó đạt hiệu quả thấp.

          Cuộc càn Bơrơtanhơ kết thúc vào ngày 31-12-1952. Địch đã gây cho ta nhiều thiệt hại về người và của. Chúng giết gần 500 dân thường, bắt đi trên 1.000 thanh niên để bổ sung vào lính; đốt phá gần 1.500 tấn thóc, trên 5.000 nóc nhà, giết và cướp đi gần 500 trâu bò và hàng ngàn con lợn. Địch còn phá hỏng cống ngăn nước mặn nhằm huỷ hoại đồng ruộng, gây tổn thất lâu dài cơ sở kinh tế của ta... Qua cuộc càn này, địch đã thực hiện được một phần âm mưu tàn phá khu du kích và căn cứ du kích của ta; tiếp tục kìm kẹp, khống chế nhân dân vùng tạm chiếm; vơ vét sức người, trấn an tinh thần nguỵ quyền và binh lính của chúng bị sa sút. Song chúng cũng bị tiêu hao hàng chục đại đội và không đạt được những mục tiêu chủ yếu; không dựng lại được bọn tề, nguỵ; không làm thay đổi được thế bị uy hiếp. Khu du kích phía nam của tỉnh vẫn đứng vững. Đây là kết quả bước đầu của một năm xây dựng, củng cố khu căn cứ du kích; kết quả của việc vận dụng phương châm đấu tranh vùng địch hậu của Trung ương và kinh nghiệm chiến đấu của hội nghị tổng kết du kích chiến tranh tháng 7- 1952; là kết quả của công tác phục hồi, củng cố tổ chức Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng sau một năm mở khu du kích, xây dựng khu du kích.

          Ngay sau cuộc càn, Tỉnh uỷ Nam Định đã tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ chỉ đạo tác chiến cho các cấp và đề ra những nhiệm vụ quân sự trước mắt. Trên cơ sở nhận định, địch có thể càn trở lại để tiếp tục thực hiện ý đồ còn bỏ dở, Tỉnh uỷ đặt ra một số nhiệm vụ cụ thể chuẩn bị chống càn:

          - Giáo dục cho đảng viên, cán bộ, nhân dân thấy rõ âm mưu của thực dân Pháp; chống tư tưởng bi quan, ngại gian khổ.

          - Chấn chỉnh lực lượng, tổ chức học tập rộng rãi kinh nghiệm chống càn và chuẩn bị chu đáo kế hoạch tác chiến.

          - Chuẩn bị mọi mặt bảo vệ thanh niên, cất giấu thóc lúa, tiếp tục công tác giáo vận.

          - Xác định việc lãnh đạo chiến tranh du kích là nhiệm vụ chủ yếu của cấp uỷ; Bí thư phải trực tiếp chỉ đạo; phải tăng cường thêm cán bộ cho lực lượng vũ trang, bán vũ trang.

          Thực hiện chủ trương đó, các cơ quan chỉ huy quân sự tỉnh, huyện được củng cố và chỉnh huấn nhằm khắc phục tư tưởng hữu khuynh, nâng cao tinh thần chiến đấu và hiệu lực chỉ huy. Hệ thống nắm tình hình được tổ chức ở cả trong hàng ngũ địch giúp cho chỉ đạo nhạy bén, đúng đắn. Các địa phương còn triển khai một đợt phá hoại giao thông, hạn chế việc vận chuyển cơ giới của chúng; phá và bức rút một số bốt dõng vũ trang địch vừa dựng lại quanh Bùi Chu.

          Những chủ trương đúng đắn, kịp thời và hoạt động tích cực, đã tạo điều kiện cho cơ sở chủ động hơn trong những cuộc càn quét liên miên của địch trong năm 1953 ở các huyện phía nam Nam Định.

    Đến đầu năm 1953, quân dân Nam Định đã trải qua một giai đoạn chiến đấu gay go, ác liệt đầy thử thách để mở rộng, củng cố và giữ vững khu du kích. Đây cũng là thời gian địch liên tiếp mở những cuộc càn quét quy mô lớn nhằm triệt phá các khu du kích, tiêu diệt bộ đội chủ lực và bình định vùng chiếm đóng. Mặc dù lực lượng không cân sức, quân và dân ta vẫn kiên cường chiến đấu để bảo vệ khu du kích, chống địch bình định, tranh thủ mọi điều kiện có thể, để tập hợp các lực lượng quần chúng, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, giải phóng đất đai, thu hẹp vùng chiếm đóng của chúng. Khi địch đang phải tập trung đối phó ở các mặt trận Hoà Bình, Tây Bắc, quân và dân trong tỉnh đã phối hợp với bộ đội chủ lực mở nhiều đợt hoạt động mạnh, làm cho địch bị tổn thất nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh. Bộ máy nguỵ quyền và hệ thống tề dõng của địch bị phá từng mảng. Khu du kích và căn cứ du kích rộng lớn ở địa phương được giữ vững và phát triển. Lực lượng vũ trang địa phương trưởng thành. Cơ sở kháng chiến ở nhiều nơi, kể cả vùng tập trung đồng bào theo đạo Thiên Chúa cũng được củng cố và phát triển.

Bộ đội chuẩn bị bộc phá trước trận đánh, năm 1953.
Bộ đội chuẩn bị bộc phá trước trận đánh, năm 1953.

          Cùng với hoạt động quân sự, cấp uỷ các địa phương đã quan tâm đẩy mạnh một bước nhiệm vụ sản xuất, phát triển kinh tế trên nhiều lĩnh vực, để bồi dưỡng sức dân, chăm lo công tác hậu cần cho nhu cầu chiến đấu trước mắt và cho cuộc kháng chiến lâu dài. Vì vậy, mặc dù cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, cuộc sống của nhân dân nói chung chẳng những vẫn được duy trì, ổn định mà còn đóng góp phần lương thực đáng kể cho cuộc kháng chiến của dân tộc.

          Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta ngày càng phát triển và giành thắng lợi to lớn. Địch ngày càng thất bại nặng nề, song chúng không chịu từ bỏ âm mưu nô dịch nước ta và phản ứng hết sức quyết liệt. Để tăng cường mọi tiềm lực, đưa cuộc kháng chiến mau đến thắng lợi, cùng với các hoạt động quân sự, Đảng chủ trương phải đồng thời từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, để nhân dân có thể cung cấp ngày càng nhiều sức người, sức của cho kháng chiến. Tại Hội nghị ngày 30-1-1953, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương "Phát động quần chúng đấu tranh để giảm tô, thực hiện giảm tức, chia công điền, ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho nông dân nhằm thoả mãn bước đầu yêu cầu chính đáng về kinh tế của nông dân", để từ đó nông dân và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang phấn khởi, nâng cao nhận thức, giữ vững ý chí quyết tâm xây dựng lực lượng kháng chiến.

          Yêu cầu bồi dưỡng sức dân, thúc đẩy kháng chiến phát triển cũng là yêu cầu cấp thiết của Đảng và quân dân Nam Định bước vào giai đoạn đọ sức quyết liệt giữa ta và địch ở địa phương. Nhiệm vụ đó đòi hỏi Đảng bộ phải có sự chỉ đạo cụ thể, toàn diện hơn để đạt được các mục tiêu về quân sự, kinh tế, xã hội.

          Giữa hai phía nam và bắc tỉnh Nam Định có dòng sông Đào ngăn cách. Địch thường xuyên dùng tàu chiến kiểm soát chặt chẽ, gây rất nhiều khó khăn cho việc chỉ đạo thống nhất, thông suốt giữa các vùng trong tỉnh. Từ tháng 5-1953, các địa phương phía bắc Nam Định gồm: Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và miền bắc Nghĩa Hưng (ở phía bắc sông Đào) được sáp nhập vào tỉnh Hà Nam.

          Năm 1953, Nam Định vẫn là một trong những vùng trọng điểm bình định của thực dân Pháp, đặc biệt là đối với các huyện miền Duyên Hải.

          Với ý đồ lấy các huyện phía nam Nam Định là trọng điểm bình định, làm nơi thực nghiệm việc xây dựng, sử dụng "khinh quân", thực dân Pháp đã chọn huyện Xuân Trường mở đầu việc thực hiện âm mưu này. Chúng sử dụng một lực lượng nhỏ (từ 1 đến 2 tiểu đoàn cơ động), đánh phá khu vực hai, ba xã. Tiếp đó, đội "quân thứ hành chính lưu động" đi sâu làm nhiệm vụ tuyên truyền mê hoặc nhân dân để lập tề. Cuối tháng 5-1953, khi đã xây dựng được ba tiểu đoàn "khinh quân" và một số chi đội "địa phương quân", chúng đẩy lực lượng này xuống huyện Giao Thuỷ, thực tập càn quét. Trong khi đó, quân cơ động đóng chốt ở Đại Đồng, Thức Hoá làm nhiệm vụ dìu dắt và yểm trợ.

          Tỉnh uỷ đã có chủ trương cụ thể về chống càn, nhưng khi thấy địch càn nhỏ thì cho rằng chúng chỉ càn quét nhằm gỡ thế bị uy hiếp cho "thị xã Bùi Chu", nên việc đối phó thiếu khẩn trương, tích cực. Trong lúc đó bộ đội và du kích cho rằng có thể địch đánh "bao vây, quặp hậu" như ở cuộc càn Bơrơtanhơ, nên chỉ lo luồn tránh. Cán bộ cơ sở nhiều nơi lại có tư tưởng ỷ lại trông chờ bộ đội, thiếu chủ động đối phó.

          Huyện Giao Thuỷ vì chủ quan, chuẩn bị chưa chu đáo nên khi địch càn tới đã tỏ ra rất lúng túng. Lực lượng vũ trang và bán vũ trang bị "bật đất", một bộ phận quần chúng hoang mang, lo lắng. Huyện uỷ, thậm chí có lúc cũng mất phương hướng, xin tỉnh cho chuyển từ khu căn cứ du kích xuống thành vùng du kích và tạm chiếm để hạ phương thức đấu tranh, lấy đấu tranh chính trị và kinh tế làm chủ yếu.

          Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ đã tiến hành giáo dục, xác định cho cán bộ, đảng viên, bộ đội và du kích phải vững tin vào bản thân, vào quần chúng, phải ra sức bám đất, bám dân để đánh địch. Tỉnh uỷ còn chủ trương giữ vững phương thức đấu tranh vũ trang, bảo vệ bằng được khu căn cứ du kích, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh kinh tế, chính trị.

          Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, hai đại đội bộ đội địa phương của tỉnh được điều về nơi địch càn quét, vừa làm nhiệm vụ cơ động đánh địch, vừa dìu dắt dân quân du kích chiến đấu. Chỉ sau một thời gian ngắn củng cố, chuẩn bị mọi mặt, quân dân ta đã liên tiếp đánh phục kích địch ở Hội Khê Bắc, Kiên Lao (Xuân Trưòng), Quất Lâm (Giao Thuỷ), có trận tiêu diệt và bắt sông hàng trăm tên địch. Lực lượng tề dõng ở Xuân Trường vừa được địch dựng lại, sợ hãi chạy vào "thị xã Bùi Chu"; lực lượng khinh quân phải về thành phố Nam Định để củng cố và huấn luyện.

    Thành phố Nam Định là nơi đặt cơ quan chỉ huy phía nam đồng bằng Bắc Bộ của địch nên chúng phòng ngừa rất nghiêm ngặt. Nhưng tới thời gian này cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng của ta ở nội thành đã phát triển khá mạnh. Sáu khu phố đều có chi bộ Đảng; 15 trong 17 thôn ở bốn xã ngoại thành có tổ Đảng. Đặc biệt, ta còn có chi bộ Đảng bí mật ở cơ quan công an nguỵ quyền và trong Nhà tù Máy Chai để có thông tin nhanh chóng về hoạt động của địch. Với những thuận lợi đó, đêm 28-4-1953 bộ đội chủ lực phối hợp với quân dân thành phố Nam Định, dùng nội ứng đánh tập kích trại huấn luyện Vạn Bảo ngay giữa thành phố, diệt gọn một tiểu đoàn, bắt 500 tên. Chiến thắng này càng làm rung chuyển hệ thống chiếm đóng của địch ở địa phương. Nhân đà thắng lợi, khi địch chuyển hướng càn sang vùng khác, ta lại thu hẹp vùng tạm chiếm, giành giật lại phần lớn khu du kích ở huyện Giao Thuỷ.

Giải phóng bốt Vô Tình, huyện Trực Ninh, năm 1952.
Giải phóng bốt Vô Tình, huyện Trực Ninh, năm 1952.

          Căn cứ vào diễn biến toàn cục, ngay khi địch đang càn huyện Giao Thuỷ, Tỉnh uỷ Nam Định đã phán đoán chúng sẽ càn sang Hải Hậu lớn hơn và ác liệt hơn. Từ kinh nghiệm của những đợt chống càn, Tỉnh uỷ ra chỉ thị bổ sung, xác định phương châm tác chiến: Bộ đội địa phương huyện phân tán dìu dắt du kích làm nhiệm vụ kiềm chế, tiêu hao địch trong từng làng xóm. Bộ đội địa phương tỉnh làm nhiệm vụ tập trung cơ động, lấy chiến thuật đánh tập kích, phục kích để tiêu diệt địch; đồng thời phát triển đánh mìn, ngăn chặn giao thông vận chuyển của địch...

          Trên địa bàn Xuân Trường, địch chỉ để lại một số tề, dõng, địa phương quân và một bộ phận quân cơ động tiếp tục càn quét bình định, còn đại bộ phận quân cơ động từ ngày 28-5 đến ngày 27-7 chuyển xuống càn quét Giao Thuỷ với lực lượng bốn tiểu đoàn (2 cơ động + 2 khinh quân), ba chi đội địa phương quân, một đại đội GAMO và hơn 20 ban tề lập sẵn. Địch đóng tại Thức Hoá, Đại Đồng, Đông Bình liên kết với Ngô Đồng hình thành thế chân vạc, cắt đứt liên lạc giữa Giao Thuỷ với căn cứ du kích Hải Hậu, Thái Bình, khống chế từng vùng, lập tề dõng. Trong hai tháng càn quét Giao Thuỷ, địch đã đốt cháy trên 1.000 tấn thóc, bắn chết 400 trâu bò, bắt gần 1.000 thanh niên, cấm không cho dân cày cấy xung quanh vị trí, đưa giáo dân đi cướp của lương dân nhằm gây lại tình trạng lương giáo xung đột như hồi cuối năm 1949.

          Đúng như dự đoán của ta, từ ngày 31-7 đến ngày 21-8 địch lại tập trung 13 tiểu đoàn bộ binh (trong đó có một nửa là "khinh quân"), 5 tàu chiến, 21 ca nô, mở trận càn mang tên Tarăngtedơ vào Hải Hậu và Nghĩa Hưng. Quân cơ động làm nhiệm vụ xung kích, chia cắt khu càn quét thành nhiều ô. Lực lượng "khinh quân" theo sau chiếm đóng Đông Biên, Văn Lý, Xương Điền (Hải Hậu), Ninh Cường (Trực Ninh), Đồng Quỹ, Quỹ Nhất, Đài Môn, Thuần Hậu (Nghĩa Hưng). Những chốt này cùng với các vị trí đã đóng ở huyện Giao Thuỷ thành một hệ thống cứ điểm chạy dọc bờ biển Nam Định, nối Bùi Chu với Phát Diệm, khống chế toàn bộ khu du kích vùng Duyên Hải. Từ các chốt đó địch toả ra tàn phá các làng xóm, bắt 5.000 thanh niên, lập thêm ba tiểu đoàn "khinh quân". Chúng khủng bố quần chúng một cách khốc liệt ngay ở những nơi tập trung đồng bào theo đạo Thiên Chúa. Điển hình như vụ địch bắn một lúc 40 thanh niên ở Văn Giáo (Nghĩa Hưng), tàn sát 17 người là cơ sở kháng chiến ở Tang Điền (Hải Hậu), hòng uy hiếp tinh thần yêu nước của giáo dân.

          Ngay ngày mở đầu trận càn, địch đã bị Đại đội 91 bộ đội địa phương tỉnh tập kích, giáng đòn phủ đầu ở Đỗ Xá (Nam Trực) diệt 160 tên, trong đó có tên thiếu tướng Gilít chỉ huy cuộc càn. Địch buộc phải ngừng cuộc càn lại bốn ngày để chỉnh đốn lực lượng. Thuỷ quân của chúng bị bộ đội địa phương và dân quân du kích quấy rối, ngăn chặn, nên không thể lợi dụng ưu thế phương tiện tiến công bao vây chia cắt ta như trước.

          Thực hiện phương châm du kích đánh kiềm chế, tiêu hao sinh lực địch, lực lượng vũ trang bám sát, chặn từng bước tiến của chúng. Chỉ một quãng đường hành quân dài 6 km từ chợ Lương đến cầu Đông (Hải Hậu) địch đã bị du kích chặn đánh 16 lần. Phải mất 6 giờ chúng mới vượt qua được. Nổi bật trong thời gian này là những đội du kích ở vùng Thiên Chúa giáo đã trưởng thành nhanh chóng, dũng cảm đánh địch lập nhiều thành tích xuất sắc: du kích xã Hải Xuân (Hải Hậu) trong một ngày đánh 13 trận, du kích xã Hồng Phong (Nghĩa Hưng) độc lập tác chiến đánh địch càn quét vào xã diệt một đại đội, bắt sống một số tên...

          Bộ đội địa phương huyện vừa làm nhiệm vụ phân tán, dìu dắt du kích, vừa linh hoạt tập trung tác chiến khi có điều kiện, nên kinh nghiệm tác chiến và phối hợp chiến đấu ngày càng hiệu quả hơn, tổ chức được những trận đánh phục kích, tập kích lớn. Nổi bật là trận tập kích của hai trung đội bộ đội huyện Nghĩa Hưng vào Giáo Phòng bắt sống 132 tên; tập kích vị trí Văn Giáo diệt và bắt gần 200 tên.

          Bốn đại đội địa phương của tỉnh, vừa luồn tránh địch, vừa cơ động tác chiến, nhằm trúng những sơ hở, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân của chúng; đồng thời bám sát lực lượng "khinh quân", giam chân chúng trong những chốt vừa mới chiếm đóng. Trong khi địch càn Hải Hậu, để sơ hở địa bàn Giao Thuỷ, Đại đội 75 bất ngờ thọc sâu tập kích vị trí Đại Đồng, diệt hơn 100 tên, phá tan nhiều ban tề dõng, làm cho khu vực bình định của địch lâm vào thế lúng túng.

          Phối hợp với tiếng súng của bộ binh, địa lôi của các đội đánh giao thông cũng nổ giòn giã, phá nhiều xe vận tải lương thực, đạn dược của địch, làm cho chúng thêm khốn đốn về hậu cần. Bị chặn đánh ở khắp nơi, địch càng bị động đối phó, tinh thần binh lính, nhất là bọn khinh quân rất bạc nhược. Sau 20 ngày càn quét lớn tỏ ra không hiệu quả, quân cơ động của địch phải rút đi. Lực lượng khinh quân ở lại giữ các chốt trong tình thế bị quân ta bao vây, uy hiếp.

          Sáu tháng đầu năm 1953 là thời kỳ quân và dân Nam Định liên tiếp phải chống trả nhiều cuộc càn quét lớn trong kế hoạch bình định vùng đồng bằng của thực dân Pháp. Song quân và dân trong tỉnh đã cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách, vừa đánh vừa rút kinh nghiệm, khắc phục chỗ còn yếu kém, phát huy sức mạnh của ba thứ quân để đánh địch. Vì vậy bộ đội địa phương, dân quân du kích đều có bước trưởng thành nhanh chóng, càng đánh càng thắng lớn, dồn địch vào thế bị động lúng túng, tạo đà cho cuộc kháng chiến toàn dân phát triển.

IX. CHI VIỆN TIỀN TUYẾN, CHỦ ĐỘNG TIẾN CÔNG TIÊU DIỆT ĐỊCH, GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG

    Sau gần tám năm theo đuổi cuộc chiến tranh Đông Dương, nước Pháp đã tốn phí 1.500 tỷ phơrăng và quân số thương vong lên tới gần 30 vạn. Tâm lý thất bại, mệt mỏi không chỉ tràn ngập trong tư tưởng binh lính Pháp ở Đông Dương mà còn ở cả trong các chính giới và nhân dân Pháp. Phong trào đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam ngày càng lan rộng trên đất Pháp và các nước Bắc Phi.

          Trước tình hình đó, Pháp buộc phải xin thêm viện trợ Mỹ nhằm cố sức tạo sự thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho chúng. Năm 1953, với viện trợ Mỹ được tăng gấp hơn năm lần so với năm 1950, Pháp tăng thêm viện binh sang Đông Dương và tăng thêm quân nguỵ. Đến mùa xuân 1954, tổng số quân địch lên tới 480.000 tên.

          Tháng 5-1953, Chính phủ Pháp cử tướng Nava, Tổng tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Tháng 7-1953, Hội đồng Chính phủ và Hội đồng quốc phòng Pháp thông qua kế hoạch quân sự của Nava. Chính phủ Pháp giao trách nhiệm cho Nava phải tạo ra "những điều kiện quân sự làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có danh dự". Kế hoạch tác chiến của Nava được chia làm hai bước:

          Bước thứ nhất, trong Thu - Đông 1953 và mùa xuân năm 1954 giữ vững thế phòng ngự chiến lược ở phía bắc vĩ tuyến 18 và tránh đương đầu với quân chủ lực của ta; xây dựng đội quân chủ lực, đồng thời thực hiện tiến công ở phía nam vĩ tuyến 18 để bình định miền Nam và miền Trung Đông Dương, xoá bỏ vùng tự do Liên khu V.

          Bước thứ hai, khi đã có ưu thế về lực lượng cơ động, thì mùa thu năm 1954, chuyển toàn bộ lực lượng ra phía bắc, mở cuộc tiến công chiến lược giành những thắng lợi quân sự to lớn, gây sức ép buộc ta phải nhận đàm phán theo những điều kiện do chúng đề ra. Nếu không, chúng sẽ tiếp tục tiến công và tiêu diệt ta.

          Cả Pháp và Mỹ đều hý hửng trông chờ vào "kế hoạch Nava". Chúng hy vọng chỉ trong 18 tháng sẽ giành lại được thế chủ động chiến lược và chuyển bại thành thắng. Nava tuyên bố "Không chấp nhận một sự rút lui nào hết!". Trong cả hai bước "kế hoạch Nava" đều coi vùng đồng bằng Bắc Bộ nói chung và khu vực Nam Định, Hà Nam nói riêng là một địa bàn chiến lược quan trọng.

          Căn cứ vào cục diện chiến trường toàn quốc Đông - Xuân 1953-1954, Trung ương Đảng đề ra phương châm chiến lược là tập trung tiến công vào những hướng chiến lược quan trọng địch tương đối yếu, giải phóng một phần đất đai, đồng thời buộc địch phải phân tán lực lượng, đối phó với ta trên những điểm xung yếu, tạo điều kiện để diệt thật nhiều sinh lực địch. Đối với vùng sau lưng địch, chủ trương của Trung ương là phải đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường, nhằm giam chân quân cơ động và tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch.

          Thi hành Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tỉnh uỷ Nam Định đã đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm trong Đông - Xuân 1953-1954 là: phối hợp với chiến trường chính, đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiêu hao sinh lực địch, mở rộng khu du kích; tích cực chống địch bắt lính, tổ chức tốt các đội dân công phục vụ chiến trường và tiếp tục thực hiện chính sách ruộng đất.

          Nhằm giải toả cho các đồn bốt đang bị bao vây uy hiếp và vực cho quân nguỵ, nhất là lực lượng "khinh quân" có thể độc lập tác chiến, cuối tháng 9-1953, địch đưa sáu tiểu đoàn "khinh quân" càn quét huyện Hải Hậu và phía nam huyện Trực Ninh. Song quân và dân ta đã kịp thời bẻ gãy các mũi tiến quân, làm chúng phải bỏ chạy về Đông Biên, Ninh Cường. Thừa thắng, quân ta truy kích địch và đánh tập kích vị trí Văn Lý, Đại Đồng, tiêu diệt và bắt sống ba tiểu đoàn, buộc chúng phải rút các vị trí Đài Môn, Thuận Hậu, Ninh Cưòng, Văn Lý, Đại Đồng. Hệ thống vành đai cứ điểm vùng duyên hải mà địch vừa mới dựng lên được mấy tháng đã bị quân dân ta phá tan. Âm mưu dùng "khinh quân" lấn chiếm khu căn cứ du kích bước đầu bị phá sản. Với những thành tích đó, quân và dân Nam Định đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu dương và được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba.

          Để phát huy thắng lợi, Tỉnh uỷ Nam Định chủ trương đẩy mạnh công tác tư tưởng, chống các biểu hiện chủ quan khinh địch, lơ là cảnh giác; đồng thòi chỉ đạo chặt chẽ việc chuẩn bị ứng phó với mọi tình thế chiến sự ác liệt. Một lần nữa, Tỉnh uỷ lại mở hội nghị học tập, quán triệt nghị quyết của Trung ương về công tác vùng địch, phổ biến kinh nghiệm đối phó với địch cho cán bộ các ngành, các cấp.

          Cuối tháng 11-1953, thực dân Pháp lại đưa về bốn binh đoàn cơ động, bốn tiểu đoàn "khinh quân", trên 300 xe cơ giới cùng với lực lượng "khinh quân" ở địa phương, mở cuộc càn Bidông từ ngày 21 đến ngày 27 trên địa bàn bốn huyện: Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Nam Trực, Trực Ninh.

    Trải qua một năm chiến đấu mở rộng khu du kích và chống càn, cả ba thứ quân có bước trưởng thành, lại được chuẩn bị chu đáo nên đợt chống càn này ta đã hiệp đồng chặt chẽ, đánh địch 182 trận lớn, nhỏ, diệt gần 1.000 tên, hạ một máy bay, phá huỷ 12 xe cơ giới. Trong lúc cuộc chiến tranh đang diễn ra ác liệt ở mặt trận vùng nông thôn, thì quân dân thành phố Nam Định đã phối hợp với bộ đội chủ lực đánh tập kích khu Bắc Tế (nơi hai tiểu đoàn địch đang tập trung huấn luyện), đánh tan một tiểu đoàn, diệt một đại đội, thu gần 200 súng. Cuộc càn Bidông hoàn toàn thất bại. Địch không những không bao vây tiêu diệt được lực lượng vũ trang của ta mà còn bị quân dân ta tiêu hao nặng nề. Quân chiếm đóng của địch càng lâm vào thế bị bao vây, uy hiếp trầm trọng hơn.

          Như vậy bước vào chiến dịch Đông - Xuân năm 1953- 1954, trên địa bàn Nam Định, quân và dân ta đã giành nhiều thắng lợi to lớn trong các cuộc chiến đấu, chống kế hoạch càn quét, bình định của giặc Pháp. Quân địch chẳng những thất bại về quân sự mà còn thất bại cả trong âm mưu chính trị thâm độc, câu kết với bọn phản động trong giáo hội Thiên Chúa, sử dụng chúng làm những tên lính xung kích gây chia rẽ đoàn kết lương - giáo và làm lực lượng chủ yếu thực hiện âm mưu chiếm đóng. Bọn phản động tại chỗ cũng không còn là chỗ dựa cho kế hoạch bình định của địch, vì về căn bản chúng đã bị ta truy quét khi mở khu du kích. Địch bày ra các trò "trao trả quyền chỉ huy tỉnh Bùi Chu" cho nguỵ quân, "Bầu cử Hội đồng hàng tỉnh Bùi Chu", "Cải cách điền địa" và nặn ra cái gọi là "Thanh niên cứu quốc", "Thanh niên dân chủ", "Thanh niên công giáo", "Phụ nữ Việt Nam"... hòng lừa gạt, lôi kéo giáo dân, nhưng tất cả đều bị phá sản.

Bộ đội Đại đoàn 316 hành quân lên Tây Bắc trong Chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954.
Bộ đội Đại đoàn 316 hành quân lên Tây Bắc trong Chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954.

          Sau một năm mở rộng khu du kích và chống càn, mặc dầu có lúc, có nơi còn lúng túng, tổ chức chiến đấu chưa thật hiệu quả, song Đảng bộ và quân dân trong tỉnh đã có bước trưởng thành nhanh chóng. Sự phối hợp của ba thứ quân ngày càng nhịp nhàng, càng đánh càng mạnh, làm cho địch phải lùi vào thế bị bao vây uy hiếp nghiêm trọng. Đáng chú ý là lực lượng du kích ở các địa phương trong đó có nhiều đội du kích vùng Thiên Chúa giáo đã phát triển cả về số lượng, trang bị và khả năng độc lập tác chiến. Tiêu biểu như du kích xã Hồng Phong (Nghĩa Hưng) đã đánh trên 100 trận. Theo thống kê chưa đầy đủ, thời gian này quân dân Nam Định đã đánh địch gần 1.600 trận, diệt 9.000 tên, phá huỷ 76 xe cơ giới, 2 máy bay, 8 tàu chiến, thu gần 1.000 súng và nhiều quân trang quân dụng khác.

          Vừa tổ chức toàn dân chống càn, Đảng bộ Nam Định vừa chú ý phát động quần chúng phá hoang, đẩy mạnh sản xuất và tiết kiệm. Chính quyền các địa phương đã xuất hơn 1.000 tấn thóc cứu đói lúc giáp hạt, tạm giao, tạm cấp hàng ngàn mẫu ruộng cho nông dân nghèo; chỉ đạo tích cực thi hành chính sách giảm tô, đem lại quyền lợi chính đáng cho người nông dân. Phấn khởi trước những quyền lợi do cách mạng đem lại, nông dân giáo cũng như lương rất hăng hái thực hiện nghĩa vụ đóng góp thuế nông nghiệp. Nhiều thôn ở sát đồn bốt địch vẫn mang thóc ra khu căn cứ đóng thuế cho Chính phủ. Thôn Nam Hưng, một thôn công giáo toàn tòng ở huyện Nam Trực chỉ trong hai giờ đã thực hiện nhanh, gọn mức thuế được giao. Vì vậy đã có thóc dự trữ nuôi cán bộ, bộ đội kháng chiến.

          Trong khói lửa chiến tranh ác liệt, chúng ta vẫn cố gắng duy trì các hoạt động y tế, giáo dục, tạo điều kiện cho hàng chục ngàn học sinh tới lớp.

          Với những thắng lợi toàn diện của cuộc kháng chiến trong giai đoạn này, ta đã bảo vệ, củng cố được khu du kích thêm vững mạnh mọi mặt. Thắng lợi về quân sự đã đẩy lùi một bước âm mưu "Dùng người Việt đánh người Việt" của địch và tạo ra sự chuyển hoá về thế và lực giữa ta và địch ở địa phương. Ta ngày càng chủ động, mạnh lên. Địch ngày càng suy yếu, bị động đối phó.

          Đó là những thành tích to lớn, tạo đà cho quân dân địa phương tiến lên giành thắng lợi quyết định trong Xuân - Hè năm 1954.

          Ở thành phố Nam Định từ tháng 12-1953, sau khi quân cơ động rút đi, lực lượng "khinh quân" cũng như "địa phương quân" hoàn toàn lâm vào thế bị động, co cụm trong một số vị trí và củng cố công sự phòng thủ.

          Bước sang năm 1954, trong hai tháng đầu, các hoạt động tác chiến của ta có giảm đi. Một phần vì ta phải kiện toàn lực lượng sau một năm chống càn quyết liệt; một phần vì không kịp thời chuyển hướng chiến thuật phù hợp với yêu cầu tác chiến. Trong khi địch chuyển vào cố thủ, ta vẫn chỉ phục kích chờ địch ra mới đánh hoặc loay hoay với cách đánh tập kích trong làng xóm. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là do Đảng bộ, quân và dân ta chưa quán triệt sâu sắc nhiệm vụ của chiến dịch Đông - Xuân, chưa linh hoạt nhạy bén tìm phương thức tiến công địch đạt hiệu quả, khi cục diện tình hình đã có sự thay đổi.

          Trước thực tế đó, Tỉnh uỷ Nam Định đã kịp thời mở Hội nghị quân sự toàn tỉnh, rút kinh nghiệm việc chỉ đạo hoạt động quân sự, xác định nhiệm vụ tác chiến trước mắt. Về chiến thuật, Hội nghị chủ trương chuyển hướng chiến thuật từ phục kích ra vận động tập kích; từ tập kích trong thôn xóm ra tập kích vào cứ điểm nhỏ, diệt từng bộ phận. Đồng thời Hội nghị còn chủ trương phát triển đánh nội ứng, đánh biệt kích, chông càn nhỏ, đánh địch sục sạo quanh vị trí và tiến tới nhanh chóng bao vây các đồn bốt của địch khi có điều kiện.

    Thực hiện chủ trương tiến công chiến lược trong Đông - Xuân 1953 - 1954 của Bộ Chính trị, ngay trong mấy tháng đầu năm 1954, quân ta liên tiếp tổ chức đợt tiến công lớn vào Lai Châu, Tây Nguyên và cùng bộ đội nước bạn đánh vào Trung Lào, Thượng Lào và Đông Bắc Campuchia. Ở tất cả các chiến trưòng đó, chúng ta giành thắng lợi to lớn và làm cho kế hoạch tập trung lực lượng cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ của Nava từng bước bị phá sản.

          Khắc phục những thiếu sót và hạn chế, nắm bắt thời cơ thuận lợi, nhân dân trong tỉnh đã tích cực chuẩn bị mọi mặt phối hợp với chiến trường chính tiến công tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch. So với Thu - Đông năm 1953, đến đầu năm 1954, lực lượng du kích ở Nam Định đã tăng lên gấp đôi, đồng thời tin tức chiến thắng Đông - Xuân trên khắp các chiến trường và những thắng lợi thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức... đã động viên mạnh mẽ tinh thần phấn khởi của quân dân trong tỉnh, ở hầu hết các địa phương, lực lượng vũ trang và bán vũ trang liên tiếp tổ chức tiến công địch và giành thắng lợi. Tháng 2-1954, Đại đội 45 và Đại đội 91, bộ đội tỉnh thọc sâu, vận động nhanh, đánh địch đóng quân ở Trà Trung và Hành Thiện (Xuân Trưòng). Ở huyện Giao Thuỷ, chỉ trong 10 ngày, bộ đội địa phương tỉnh đã tổ chức đánh sáu trận phục kích quân địch từ Bùi Chu đi cứu viện cho vị trí Thức Hoá.

          Trận nội ứng chiến, kết hợp với cường tập tiêu diệt vị trí Quy Phú (Nam Trực) và trận vận động phục kích một đơn vị địch giải vây cho Đông Biên (Hải Hậu), tiêu diệt một đại đội ở Cầu Đôi là những tiến bộ mới về chiến thuật, kỹ thuật và cách đánh mới của bộ đội ta trong điều kiện địch có trang bị vũ khí tốt hơn và có công sự cố thủ kiên cố.

          Bộ đội địa phương huyện đã vươn lên độc lập tác chiến trong nhiều trận, bao vây thưòng xuyên, chặt chẽ các vị trí còn lại trong khu du kích, hạn chế các cuộc sục sạo của địch, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực, bộ đội tỉnh tập trung tiêu diệt các vị trí trọng điểm.

          Ngày 7-2, địch điều hai tiểu đoàn cơ động số 4 và số 5 càn quét, truy lùng chủ lực ta. Ngay hôm đó, tại Duy Tân (Vụ Bản), Tiểu đoàn Bến Hiệp (Đại đoàn 320) cùng du kích các thôn Phú Thôn, Bàn Kết chiến đấu suốt một ngày, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Cùng ngày, tại thôn Thái La (xã Quang Trung, Vụ Bản), Đại đội 60 (Tiểu đoàn 71) và Đại đội 26 huyện Vụ Bản, phục kích tiêu diệt 300 tên. Địch đã phải dùng cả máy bay để chở xác đồng bọn.

          Bị thủng một mảng lớn ở phòng tuyến sông Đáy, đường 10, bị uy hiếp, địch tăng cường củng cố các vị trí trọng yếu trên đường số 1, đường 21. Để phá tan âm mưu này, ta chủ động tiến công đồng loạt tất cả các tuyến giao thông thuỷ, bộ của địch. Không một ngày nào mà xe, tàu của địch không bị đánh. Những con đường giao thông từ thành phố Nam Định đi thị xã Phủ Lý toả đi các hướng thường xuyên trở thành nỗi kinh hoàng đối với quân giặc, cả ba thứ quân của ta đều có cách đánh sáng tạo, phong phú, phù hợp với khả năng và sở trường tác chiến của mình. Nhiều đơn vị địa phương còn đề ra chỉ tiêu diệt xe cơ giới và thường xuyên luân phiên nhau bám sát mặt đường đánh địch.

          Cũng trong thòi gian này, dân quân du kích ở các địa phương có bước trưởng thành mau chóng, chẳng những anh chị em đã phối hợp một cách nhịp nhàng, có hiệu quả với bộ đội trong các trận đánh lớn mà còn phát triển được nhiều hình thức tác chiến rất linh hoạt, thay thế bộ đội huyện vây hãm các vị trí; độc lập tác chiến quấy rối, đánh mìn, nghi binh địch trên các tuyến giao thông huyết mạch. Du kích các xã Xuân Bắc, Xuân Thuỷ (Xuân Trường) táo bạo đột kích vào Bùi Chu, Phú Nhai, Thuỷ Nhai diệt vọng gác; vũ trang tuyên truyền sát vị trí địch. Du kích Nghĩa Hưng, sau khi địch rút khỏi huyện đã chủ động qua sông Đáy phối hợp với lực lượng vũ trang Ninh Bình, vũ trang tuyên truyền gây cơ sở trong vùng tạm chiếm, diệt vị trí Hoà Lạc...

          Nhân tinh thần địch hoang mang, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo chặt chẽ các cuộc đấu tranh chính trị, chống địch bắt lính và công tác binh vận. Ta đã vận động, tổ chức nhiều gia đình nguỵ binh đi thăm hỏi và đòi chồng con trở về. Có huyện có từ 600 đến 700 gia đình hưởng ứng. Ở ấp Xuân Thuỷ và xã Hải Triều (Hải Hậu), cùng lúc trên một trăm người nhà nguỵ binh kéo lên vị trí Đông Biên, buộc bọn sĩ quan phải cho gặp chồng con. Sau đó 60 binh sĩ đã bỏ trốn. Chỉ trong mấy tháng đầu năm 1954, trên địa bàn Nam Định đã có hàng ngàn nguỵ binh và hương dũng đào ngũ, hàng ngàn thanh niên bị bắt lính bỏ trốn trở về; hàng chục lính Âu - Phi ra hàng. Hàng ngũ nguỵ quân và hệ thống nguỵ quyền rệu rã, suy sụp thảm hại. Càng thất bại nặng nề, lực lượng của địch ngày càng hao hụt nghiêm trọng do thương vong và do binh lính đào ngũ. Vì vậy chúng phải ra sức đôn quân bắt lính. Chỉ trong sáu tháng đầu năm 1954, trong toàn tỉnh địch đã càn bắt 8.000 thanh niên. Thậm chí, chúng phải lấy cả 600 "tù" là những người bị chúng giam trong Nhà tù Máy Chai (Nam Định) bổ sung vào lính. Địch còn cưỡng ép hàng trăm phụ nữ vào "khinh quân" ở các địa phương. Nhận rõ âm mưu của kẻ thù, các cấp bộ Đảng và nhân dân trong tỉnh đã đẩy mạnh công tác tổ chức, vận động chống địch bắt lính, nhất là ở những nơi chúng còn có khả năng huy động lực lượng vây bắt thanh niên bổ sung quân số đang ngày càng thiếu hụt nghiêm trọng. Đông - Xuân 1953-1954, nhân dân Nam Định đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống địch bắt thanh niên đi lính. Điển hình là cuộc đấu tranh của nhân dân xã Mỹ Hưng (Mỹ Lộc).

    Cùng với thắng lợi trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, cơ quan mậu dịch Nam Định còn tổ chức tốt việc lưu thông hàng hoá giữa vùng tạm chiếm với khu căn cứ du kích và thị trường ở vùng tự do bên ngoài. Mặc dù địch ra sức ngăn cấm không cho đưa nhu yếu phẩm quan trọng như thuốc chữa bệnh, sợi, dầu hoả, thóc gạo, vải vóc... từ vùng tạm bị chiếm ra vùng tự do, nhưng chúng ta vẫn khơi thêm nguồn hàng, hướng dẫn hoạt động cho những người buôn bán, điều hoà giá cả thị trường, nhập và xuất từ vùng tự do được nhiều hàng hoá phục vụ kháng chiến và đời sống nhân dân. Ba tháng đầu năm 1954, ngành mậu dịch Nam Định đã xuất được 217 triệu đồng và nhập 276 triệu đồng hàng hoá, trong đó nhập 79 triệu đồng dược phẩm, 25 triệu đồng sợi bông, 13 triệu đồng dầu hoả..., đồng thời xuất được nhiều sản phẩm chủ yếu do nhân dân trong vùng du kích sản xuất với giá cao như: gạo 81 triệu đồng; muối 5,4 triệu đồng, đem lại quyển lợi cho nông dân và diêm dân.

Ngày 7-5-1954, lá cờ quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nấp hầm tướng Đờ Cát - chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điên Biên Phủ, kết thúc vẻ vang 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ngày 7-5-1954, lá cờ quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nấp hầm tướng Đờ Cát - chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điên Biên Phủ, kết thúc vẻ vang 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp.

          Từ năm 1953, phong trào thanh niên xung phong tòng quân phát triển sôi nổi, đều khắp ở các thôn, xã. Nhiều thanh niên ở thành thị ra vùng căn cứ nộp đơn tòng quân. Nhiều địa phương đã vượt chỉ tiêu giao quân. Việc đóng góp sức của, chi viện cho tiền tuyến cũng bừng lên, sôi nổi trên nhiều mặt. Tháng 5-1954, khi trên mặt trận chính Điện Biên Phủ, cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra rất quyết liệt, hàng vạn dân công Nam Định tấp nập thồ lương, tải đạn ra phía trước. Với tất cả tinh thần vì Điện Biên Phủ chiến thắng, nhân dân Nam Định đã huy động hàng trăm kilôgam đậu, lạc, vừng, hàng ngàn bánh thuốc lào... đóng gói chu đáo gửi tới các chiến sĩ đang ngày đêm vây, lấn cứ điểm. Hàng ngàn kilôgam muối, cá, tôm khô qua bàn tay diêm dân, ngư dân ven biển Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa Hưng lên đường ra mặt trận. Từ vùng địch tạm chiếm, hàng chục ngàn ống thuốc tiêm, thuốc viên, hàng ngàn lá thư tình nghĩa gửi tới các chiến sĩ đang ngày đêm bám địch bên chiến hào. Nhiều cụ già mang tiền nhờ cán bộ ta mua quà gửi tặng bộ đội Điện Biên. Nhiều bà con làm nghề chài lưới trên sông tình nguyện đi chở hàng dài ngày phục vụ tiền tuyến... Đó là những biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước, của tinh thần tất cả vì kháng chiến, tất cả vì chiến thắng ở Điện Biên Phủ của nhân dân trong tỉnh.

          Ngày 7-5-1954, lá cờ đỏ sao vàng của ta phần phật bay trên nóc hầm tướng Đòcáttơri khẳng định sự chiến bại hoàn toàn của quân đội Pháp ở chiến trường Điện Biên Phủ.

          Đại thắng Điện Biên Phủ đã giáng một đòn quyết định vào ý đồ xâm lược của đế quốc Pháp và có tác dụng quyết định thúc đẩy sự tiến triển của Hội nghị Giơnevơ bàn về lập lại hoà bình ở Đông Dương.

          Chiến thắng Điện Biên Phủ cùng với việc thực dân Pháp phải nghiêm chỉnh ngồi vào bàn đàm phán ở Hội nghị Giơnevơ đã làm nức lòng quân dân cả nước nói chung và quân dân trong tỉnh nói riêng, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy cuộc kháng chiến ở địa phương lên một bước mới. Thấm nhuần tinh thần Nghị quyết Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra ngày 17-12-1953 là: "Hoà bình ở Việt Nam có được lập lại hay không, chủ yếu là do quân và dân ta quyết định", quân dân Nam Định không ảo tưởng, ngồi chờ hoà bình, mà càng nắm chắc tay súng thừa thắng xốc tới.

          Đêm 25-5-1954, bộ đội chủ lực đã phối hợp với bộ đội địa phương, tiêu diệt hoàn toàn vị trí Thức Hoá (Giao Thuỷ) bắt 650 tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng.

          Ngày 4-6, quân ta tiếp tục tiêu diệt vị trí Đông Biên (Hải Hậu) do hai tiểu đoàn "khinh quân", bốn đại đội địa phương quân đóng giữ. Sau 12 giờ chiến đấu, ta đã giành thắng lợi, tiêu diệt một số tên, bắt sống 500 tên.

          Chiến thắng vang dội này đã đập tan mắt xích cuối cùng của vành đai cứ điểm phòng vệ vùng duyên hải phía nam Nam Định của địch, buộc chúng phải rút bỏ các vị trí Cựa Gà (Trực Ninh); Phú Gia, Giáp Tư, Cao Lọng (Nam Trực). Tới đây căn cứ du kích của ta đã lấn sát "thị xã Bùi Chu" và thành phố Nam Định.

          Trong vòng nửa đầu năm 1954, với quyết tâm giành thắng lợi trong Chiến dịch Đông - Xuân, quân và dân Nam Định nỗ lực đẩy mạnh mọi mặt hoạt động kháng chiến, nhất là trên mặt trận quân sự. Bộ đội địa phương và dân quân du kích Nam Định đánh trên 1.600 trận (trong đó du kích đánh 800 trận) diệt và làm bị thương trên 3.000 tên địch, thu hàng trăm súng các loại, phá huỷ gần 100 xe cơ giới. Thắng lợi đó góp phần tiêu diệt một bộ phận sinh lực đáng kể của địch, kiềm chế giam chân giặc ở đồng bằng, tạo điều kiện tác chiến thuận lợi cho quân và dân ta ở chiến trường chính. Với đỉnh cao là chiến thắng Đông Biên, Thức Hoá, chúng ta đã góp phần đập tan ý đồ chiếm đóng đồng bằng Bắc Bộ của thực dân Pháp và bè lũ nguỵ quân, nguỵ quyền tay sai. Do đó, trong khi Hội nghị Giơnevơ chưa kết thúc, thì từ trung tuần tháng 6, địch đã rục rịch rút khỏi Nam Định, nhằm tránh những đòn truy kích của quân dân ta.

          Với những thành tích đó, quân dân Nam Định đã được Bộ Quốc phòng biểu dương và tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Hai cho dân quân, du kích và nhân dân xã Liên Minh; dân quân, du kích xã Kim Thái (huyện Vụ Bản); Huân chương Kháng chiến hạng Ba cho dân quân, du kích xã Mỹ Hưng (huyện Mỹ Lộc).

    Để cứu vãn quân đội viễn chinh ở Đông Dương khỏi bị tiêu diệt, từ giữa tháng 5-1954, Hội đồng quốc phòng của Chính phủ Pháp đã chủ trương "rút quân khỏi miền Nam đồng bằng Bắc Bộ; khi cần thiết có thể bỏ Hà Nội, rút về Hải Phòng và cần thiết nữa có thể rút xuống phía nam vĩ tuyến 18".

          Hiện tượng địch ở thành phố Nam Định chuẩn bị rút ngày càng rõ. Tư bản Pháp cho dãn thợ và ra lệnh tháo dỡ máy móc chuẩn bị mang đi. Nắm được âm mưu của địch, Chi bộ Nhà máy sợi đã lãnh đạo công nhân cơ khí bám sát, giữ máy; đồng thời tổ chức hàng ngàn công nhân khác kiên quyết đấu tranh đòi việc làm, đòi trả đủ lương tháng 6 và tiếp tục sản xuất. Chủ nhà máy buộc phải nhượng bộ, khí thế làm việc của công nhân sôi nổi hẳn lên.

          Lúc này, Tỉnh uỷ vẫn nhận định: "Có thể địch chuẩn bị chuyển lực lượng chiếm đóng đi nơi khác và trao trả Nam Định cho nguỵ quyền". Vì vậy hoạt động chủ yếu lúc đó chỉ là bám sát địch và chặn các cuộc sục sạo của chúng. Cuối tháng 6, Liên khu uỷ III và Bộ Tư lệnh quân khu III cũng có điện chỉ thị: địch có thể rút khỏi Nam Định, phải gấp rút tập trung chuẩn bị đánh địch bỏ chạy.

Uỷ ban quân chính và hành chính thành phố Nam Định ra mắt nhân dân ngày 2-9-1954.
Uỷ ban quân chính và hành chính thành phố Nam Định ra mắt nhân dân ngày 2-9-1954.

          Đến 9 giờ ngày 1-7-1954, địch đã rút toàn bộ các vị trí còn lại (theo lối cuốn chiếu) ở Ngô Đồng, Hành Thiện, Bùi Chu, Lạc Quần, Cổ Lễ và cuối cùng là thành phố Nam Định.

          Hồi 12 giờ cùng ngày, ở Nhà máy sợi Nam Định, chủ Nhà máy - một tư sản Ấn kiều - buộc phải trao lại toàn bộ chìa khoá cho đại diện công nhân.

          Sau khi nhận được điện của Quân khu III, các lực lượng vũ trang trong tỉnh đã khẩn trương triển khai phương án truy kích địch. Du kích Mỹ Lộc đánh mìn phá hỏng bảy xe cơ giới. Du kích đường 10 bắn cháy một máy bay, làm lật đổ tám xe, các lực lượng vũ trang Ý Yên phá hỏng một xe tăng, một khẩu pháo và gọi được 10 lính địch ra hàng. Du kích Vụ Bản xiết chặt vòng vây vị trí Gôi, gọi hàng được 42 tên.

          Ngay sau ngày thắng lợi, Đảng bộ và quân dân Nam Định bắt tay ngay vào nhiệm vụ của vùng mới giải phóng. Tỉnh uỷ khẩn trương tổ chức hội nghị các bí thư huyện uỷ, trưởng các ngành, giới để bàn việc củng cố ổn định tổ chức; có kế hoạch chặt chẽ thu hồi thành phố Nam Định và một số thị trấn; đồng thời duy trì hoạt động kinh tế, xã hội từ thành phố tới các vùng nông thôn.

          Ngày 3-7, Trung ương Đảng giao cho Liên khu uỷ III cử 80 cán bộ các ngành tăng cường cho công tác tiếp quản thành phố Nam Định và thành lập uỷ ban quân quản do đồng chí Lê Quốc Thân - Thường vụ Khu uỷ, làm Chủ tịch, uỷ ban quân quản đã khẩn trương tiếp quản 39 nơi đóng quân của giặc, thu dung 373 viên chức nguỵ quyền, kiểm kê 29 trường trung, tiểu học, tiếp nhận 2.000 binh sĩ nguỵ ra trình diện. Đồng thời, uỷ ban quân quản còn tổ chức giới thiệu tám chính sách vùng mới giải phóng và nhiệm vụ của mỗi công dân trong lao động sản xuất, xây dựng quê hương.

          Ở Bùi Chu, Tỉnh uỷ đã thành lập uỷ ban giải phóng Bùi Chu do đồng chí Phó Bí thư Tỉnh uỷ làm Chủ tịch; đồng thời tập trung 15 cán bộ của tỉnh cùng với huyện Xuân Trường tiếp thu thị trấn Bùi Chu. Đây là sào huyệt trung tâm của bọn phản động đội lốt Thiên Chúa giáo. Cơ sở kháng chiến hầu như không có, nhiều đồng bào theo đạo Thiên Chúa bị địch lừa gạt, mê hoặc nên chưa hiểu rõ về cách mạng. Với những cố gắng của uỷ ban giải phóng, tình hình mọi mặt trong vùng dần dần được ổn định, nhất là từ khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết.

          Cùng với nhân dân cả nước, quân dân Nam Định vô cùng hân hoan, phấn khởi trong không khí đón mừng ngày quê hương được hoàn toàn giải phóng và hăng hái bắt tay vào giải quyết những hậu quả do chiến tranh để lại; duy trì, đẩy mạnh sản xuất và các hoạt động văn hoá, xã hội, tạo tiền đề cho quá trình xây dựng một xã hội mới.

          Cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền còn non trẻ và kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta nói chung và nhân dân Nam Định nói riêng đã giành thắng lợi vẻ vang.

          Vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã đạt được những thành quả to lớn trong buổi đầu kiến tạo cuộc sống mới; vừa góp sức chi viện cho các chiến trường, vừa trực tiếp đánh trả quân thù, bảo vệ quê hương, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc đấu trí, đấu lực với kẻ thù xâm lược là thực dân Pháp.

          Chính quyền dân chủ nhân dân từ tỉnh tới cơ sở vừa mới ra đời, lực lượng vũ trang còn rất hạn chế về số lượng, trang bị và trình độ tác chiến, Đảng bộ và nhân dân Nam Định đã phải tiến hành một loạt nhiệm vụ to lớn của một miền quê vừa thoát khỏi vòng nô lệ: bảo vệ chính quyền cách mạng, ổn định và phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - văn hoá, xã hội, đi đôi với việc chuẩn bị mọi mặt cho cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù sắp diễn ra. Những kết quả đạt được trên các lĩnh vực của đời sống, tuy mới chỉ là bước đầu và trong thời gian không dài, nhưng đã đem lại cho nhân dân bầu không khí phấn khởi, tự do, hạnh phúc thực sự. Đồng thời tạo những tiền đề quan trọng để nhân dân trong tỉnh quyết tâm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

          Khi cuộc kháng chiến "ba nghìn ngày không nghỉ" của dân tộc ta chống xâm lược bùng nổ, vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng bộ ra sức xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, kiên trì vận động, tổ chức quần chúng tham gia vào các hoạt động kháng chiến; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương - giáo, từng bước làm thất bại âm mưu và hành động xâm lược của thực dân Pháp và bọn tay sai.

          Trong gian lao, thử thách, nổi lên những tấm gương kiên trung bất khuất của biết bao cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu nước. Những phẩm chất tốt đẹp của một cộng đồng có lòng yêu nước nồng nàn, dũng cảm trong đấu tranh, cần cù trong lao động được khơi dậy, nhân lên dưới sự lãnh đạo đúng đắn của các cấp ủy Đảng, đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để tiêu diệt quân thù, giải phóng quê hương.

          Trong quá trình chỉ đạo kháng chiến, tuy có một số hạn chế và vấp váp, thậm chí có sai lầm, song thành quả mà Đảng bộ và nhân dân Nam Định đạt được là cơ bản và rất to lớn. Thắng lợi đó chính là kết quả của sự phấn đấu không mệt mỏi của Đảng bộ, của tinh thần và khả năng cách mạng của các tầng lớp nhân dân tỉnh Nam Định.

          Với những thành công đã đạt được, những kinh nghiệm và cả sự thử thách, tôi luyện trong chiến tranh cách mạng, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh vững tin cùng cả nước bước vào một thời kỳ mới của lịch sử dân tộc.

Họ Mai Trà Trung Họ Mai Hải Nam Họ Mai Hải Hậu Họ Mai Nam Định Họ Mai Việt Nam