Chương VIII: Lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới của Đảng 1986-1990

CHƯƠNG VIII
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG
1986 - 1990

1. Những khó khăn thách thức và quyết tâm thực hiện sự nghiệp đổi mới của Đảng bộ

    Sau 10 năm xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội (1976-1986), dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã có nhiều chuyển biến với nhiều thành tựu mới. Ở tỉnh, nhiều công trình công nghiệp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư xây dựng; hệ thống công trình đầu nguồn và thuỷ lợi nội đồng, một số công trình phúc lợi công cộng ở nông thôn được tu bổ và xây dựng mới.

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam Ninh lần thứ IV, tháng 10-1986.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam Ninh lần thứ IV, tháng 10-1986.

          Tuy nhiên, những chuyển biến đó chưa làm thay đổi căn bản được tình hình kinh tế - xã hội, chưa tạo ra thế ổn định vững chắc; sản xuất chậm phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương. Trong tỉnh, những mất cân đối của nền kinh tế chậm được khắc phục, đời sống nhân dân, nhất là công nhân, viên chức gặp nhiều khó khăn, tiêu cực xã hội gia tăng, công bằng xã hội bị vi phạm... Trong khi đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng còn những mặt hạn chế, yếu kém: chủ quan, duy ý chí, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa dẫn đến nền kinh tế đất nước bị trì trệ, rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Nước ta lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận, gây nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Tình hình đó đặt ra yêu cầu bức thiết phải đổi mới đất nước, đó là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh dân tộc và cách mạng Việt Nam.

          Với tinh thần tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã nghiên cứu, phân tích sâu sắc những khuyết điểm, yếu kém sau 10 năm xây dựng đất nước, đề ra chủ trương, giải pháp đổi mới đất nước với nội dung cốt lõi là: Đổi mới nếp nghĩ, cách làm (đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế; đổi mới phong cách làm việc), đổi mới tổ chức và cán bộ, nhằm thực hiện quyết tâm chiến lược xoá bỏ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

          Theo tinh thần và định hướng trên, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Nam Ninh lần thứ IV được chuẩn bị công phu, nghiêm túc theo tinh thần đổi mới.

          Để tiến tới Đại hội, 1.710 tổ chức cơ sở đảng, 27 đảng bộ huyện, thành, thị và đảng bộ trực thuộc đã tổ chức đại hội và tiến hành đợt tự phê bình và phê bình theo Chỉ thị số 79-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh. Với ý thức trách nhiệm cao, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã phát huy trí tuệ tập thể, đóng góp nhiều ý kiến vào các dự thảo văn kiện của Trung ương và dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.

          Từ ngày 21 đến ngày 25-10-1986, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam Ninh lần thứ IV được tiến hành tại Nhà văn hoá 3-2, thành phố Nam Định, gồm 516 đại biểu chính thức. Đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao về dự và chỉ đạo Đại hội. Với tinh thần đoàn kết, trách nhiệm cao, Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo Báo cáo chính trị, dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng; thảo luận báo cáo kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III, khẳng định những thành tựu đã đạt được và chỉ rõ những khuyết điểm yếu kém, nhất là trên lĩnh vực kinh tế - xã hội. Vận dụng quan điểm đổi mới được trình bày trong dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đại hội xác định phương châm hành động của Đảng bộ tỉnh trong thời gian tới là: Phải thật sự đổi mới nhận thức, đổi mới phong cách làm việc, đổi mới tổ chức và cán bộ trong tất cả các cấp, các ngành, trên tất cả các lĩnh vực công tác của tỉnh. Mọi công việc phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu. Kiên quyết chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa; quan tâm đến lợi ích của người lao động, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung của toàn xã hội...

    Trên tinh thần đó, Đại hội đề ra phương hướng chung cho 5 năm 1986-1990 là: Tăng cường đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động cách mạng, tập trung đẩy mạnh sản xuất, thực sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trọng tâm là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; xây dựng cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp gắn bó chặt chẽ với xuất - nhập khẩu; kết hợp chặt chẽ kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và năng lực sáng tạo của nhân dân lao động, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, khai thác tiềm năng, thế mạnh của ba vùng kinh tế trong tỉnh; từng bước ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân; tạo nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế trong tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho bước phát triển mạnh mẽ trong những năm sau.

         Từ phương hướng chung, Đại hội đề ra những mục tiêu phấn đấu của Đảng bộ trong nhiệm kỳ tới:

          Từng bước ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế trong tỉnh trên cơ sở ổn định và phát triển sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp.

          Tập trung cao độ chỉ đạo và đầu tư cho mặt trận hàng đầu là nông nghiệp, đồng thời chú trọng phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả các hoạt động sản xuất và kinh doanh, tăng nhanh xuất nhập khẩu, mở rộng liên kết, hợp tác và triệt để thực hành tiết kiệm. Hình thành cơ cấu kinh tế và xác định cơ cấu đầu tư hợp lý từ tỉnh đến cơ sở.

          Tiếp tục hoàn chỉnh, xây dựng, tăng cường quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ yêu cầu sản xuất và đời sống, nhất là cho thâm canh nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hàng xuất khẩu. Đưa nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.

          Thường xuyên chú trọng củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Hình thành và thực hiện cơ chế quản lý mới; tăng cường công tác quản lý về mọi mặt, cố gắng đến mức cao nhất giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Thực hiện phân phối theo lao động, đấu tranh khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực, xây dựng nếp sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.

          Thực hiện tốt nghĩa vụ với Nhà nước và nghĩa vụ quốc tế, tăng cường quốc phòng, an ninh, lập lại kỷ cương xã hội. Tăng cường kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

         Trên cơ sở tình hình thực tế ở địa phương, Đại hội đã xây dựng 4 chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm tới là:

          Chương trình lương thực thực phẩm;

          Chương trình hàng tiêu dùng;

          Chương trình hàng xuất khẩu;

          Chương trình dân số và lao động.

         Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Hà Nam Ninh khoá IV gồm 65 đồng chí, trong đó có 51 ủy viên chính thức, 14 ủy viên dự khuyết và bầu đoàn đại biểu gồm 45 đồng chí đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Ban Chấp hành Đảng bộ khoá IV họp phiên đầu tiên vào ngày 25-10-1986 bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 15 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn An - Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Tô Xuân Toàn được bầu làm Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, đồng chí Đinh Gia Huấn là Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh.

Thành công của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV đánh dấu bước chuyển biến quan trọng về nhận thức và sự cụ thể hoá bước đầu đường lối đổi mới của Đảng vào tình hình cụ thể của địa phương. Đại hội đã khơi dậy không khí dân chủ, cởi mở trong Đảng và toàn xã hội, đặt cơ sở để huy động sức mạnh tinh thần to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở địa phương, thể hiện sự đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động của nhân dân trong tỉnh, quyết tâm xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đó là khâu đột phá đúng đắn, phù hợp với quy luật và thực tiễn cách mạng ở nước ta, là định hướng xuyên suốt quá trình đổi mới ở tỉnh nhà trong những năm 1986-1990 và những năm sau.

Ngày 11-11-1986, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp thông qua Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khoá IV). Đây là bản quy chế đầu tiên được xây dựng theo tinh thần đổi mới của Điều lệ Đảng (sửa đổi). Quy chế do Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh xây dựng đã thể hiện sự quán triệt sâu sắc tinh thần đổi mới của Đảng, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của công tác xây dựng đảng trong thời kỳ mới.

Tháng 12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Với tinh thần đổi mới, Đại hội đã kiểm điểm sâu sắc tình hình kinh tế - xã hội, khẳng định những thành tựu đạt được và chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước; đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần; đổi mới cơ chế quản lý, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đại hội khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo. Đại hội chỉ rõ: Trong những năm tới, chúng ta thực sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; công nghiệp nặng trước hết và chủ yếu là phục vụ sản xuất nông nghiệp; công nghiệp nhẹ phát triển với quy mô và trình độ thích hợp... Phương hướng đó được thể hiện ở ba chương trình kinh tế: Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ba chương trình này liên quan chặt chẽ với nhau, là cơ sở và tiền đề cho nhau cùng phát triển. Nhằm tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi mới nhiều mặt: Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Đại hội xác định: Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tạo ra bước đột phá lớn và toàn diện, đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên. Đảng bộ và nhân dân Hà Nam Ninh đón nhận Nghị quyết Đại hội VI với tinh thần phấn khởi, tin tưởng. Phong trào cách mạng như được tiếp thêm sức mạnh, thúc đẩy tiến trình xây dựng và phát triển quê hương.

Để đưa chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng vào cuộc sống, Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp ủy đảng tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, xây dựng chương trình hành động cụ thể phù hợp với thực tế của từng địa phương, từng đơn vị.

2. Tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách, thực hiện và vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng (1986-1990)

Bước vào công cuộc đổi mới, tình hình chung ở tỉnh có nhiều khó khăn, phức tạp. Kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, đời sống nhân dân lao động ở cả nông thôn và thành thị gặp nhiều khó khăn. Các nhà máy, xí nghiệp, công ty sản xuất kinh doanh bị cắt giảm dần nguồn bao cấp, bước đầu chuyển sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, bộc lộ sự yếu kém, lúng túng và sa sút nghiêm trọng. Lạm phát tăng vọt, thị trường giá cả rối ren, hàng hoá khan hiếm. Công nhân thiếu việc làm phải nghỉ luân phiên, tự tìm việc làm hoặc phải nghỉ “Chế độ 176”. Nạn hụi - họ, cho vay nặng lãi tràn lan, gây hậu quả nặng nề trong đời sống xã hội ở địa phương... Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Tỉnh ủy xác định mọi hoạt động của Đảng bộ đều phải hướng vào thực hiện mục tiêu do Đại hội đề ra: Từng bước ổn định tình hình kinh tế - xã hội mà quan trọng nhất là ổn định sản xuất, phải thực sự lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ổn định và giải quyết một bước đời sống nhân dân lao động, tạo được tích lũy từ nội bộ nền kinh tế trong tỉnh.

Để củng cố các hợp tác xã nông nghiệp, phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nông dân và xã viên, ngày 13-3-1986, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 38-CT/TU chỉ đạo việc tiến hành đại hội xã viên hợp tác xã nông nghiệp gắn với Hội Nông dân tập thể ở cơ sở. Các hợp tác xã phải chủ động đề ra được phương hướng sản xuất phù hợp, hiệu quả, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đổi mới cơ chế quản lý của hợp tác xã nông nghiệp, đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra.

Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TU ngày 23-5-1987 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về một số quy định nhằm bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã nông nghiệp, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy cơ sở, các hợp tác xã đã chủ động, sáng tạo khai thác mọi tiềm năng hiện có, chủ yếu là đất đai, lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật và tiền vốn ở cơ sở mình để đổi mới cơ cấu sản xuất, đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ; đưa nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào tất cả các khâu: Làm đất, chăm bón, gieo trồng, tuyển chọn giống cây trồng, vật nuôi, phòng trừ sâu bệnh... Các chính sách mới về kinh tế cùng với việc hoàn chỉnh cơ chế khoán sản phẩm trong hợp tác xã, bổ sung đất phần trăm làm kinh tế gia đình đã thực sự thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.

Sau 7 năm thực hiện Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về cải tiến công tác khoán mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp, bước đầu các hợp tác xã nông nghiệp đã đổi mới được cơ chế quản lý, làm cho sản xuất nông nghiệp thoát khỏi tình trạng sa sút, trì trệ của những năm 1978-1980; lao động, vật tư được sử dụng có hiệu quả hơn, nông dân hăng hái thi đua vượt khoán. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện “Khoán 100”, do quan hệ sản xuất trong nông nghiệp chưa có sự đổi mới căn bản nên đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém: chưa xác định được hợp tác xã nông nghiệp là một đơn vị sản xuất, kinh doanh; mọi chi phí của hợp tác xã và các khoản đóng góp của xã với Nhà nước hầu như đều đổ dồn vào người nông dân phải gánh chịu; công tác quản lý tiền vốn, vật tư của tập thể chưa chặt chẽ; cán bộ quản lý hợp tác xã còn thiếu trách nhiệm gây nhiều lãng phí; còn bao cấp tràn lan trong nội bộ hợp tác xã và cho cả chính quyền. Việc cung ứng dịch vụ của Nhà nước đối với nông dân chưa đầy đủ, thiếu kịp thời dẫn đến tình trạng phiền hà, cửa quyền, nhiều tầng, nấc. Cơ chế chính sách đối với nông nghiệp và người nông dân chưa phù hợp. Những nguyên nhân trên làm hạn chế tinh thần làm chủ của người lao động. Tình trạng khê đọng sản phẩm tăng dần, nông dân không gắn bó với đồng ruộng, không tích cực sản xuất. Việc thực hiện đóng góp với Nhà nước chậm, một số hợp tác xã không hoàn thành chỉ tiêu nghĩa vụ, quỹ vốn hợp tác xã tăng chậm, một số nơi thiếu hụt, nợ nần nghiêm trọng.

Trước thực trạng chung của cả nước, ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nghị quyết đã cụ thể hoá đường lối đổi mới của Đại hội VI và xác định rõ những quan điểm cơ bản của Đảng về cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn: Coi nông thôn là địa bàn trọng yếu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong những năm trước mắt. Nghị quyết đề ra những nội dung đổi mới toàn diện cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp nhằm xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; xây dựng cơ chế kinh tế hạch toán tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị quốc doanh cũng như hợp tác xã nông nghiệp.

    Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị là sự bổ sung hoàn thiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư. Nghị quyết đề ra một cơ chế khoán mới trong hợp tác xã nông nghiệp thay cho cơ chế khoán theo Chỉ thị 100; xác định hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản, hộ gia đình là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã (thường gọi là “khoán 10” hoặc “khoán hộ”).

          Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã đáp ứng yêu cầu cấp bách của sản xuất và đời sống, hợp với lòng dân hơn, trước hết là nông dân.

          Nhận rõ tầm quan trọng của Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Ban Thưòng vụ Tỉnh ủy và Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh kịp thời tổ chức nghiên cứu, quán triệt và đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể để tổ chức thực hiện. Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh ra các thông báo, quyết định để hướng dẫn các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, trước hết tập trung vào lĩnh vực hợp tác xã nông nghiệp, để sớm tạo ra sự chuyến biến mới trong sản xuất nông nghiệp. Ngày 29-8-1988, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 10 (khoá IV) ra Nghị quyết số 18-NQ/TU về việc tiếp tục thực hiện đổi mới quản lý kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị. Nghị quyết nhấn mạnh: Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp phải nhằm thực hiện tốt bốn yêu cầu đã nêu trong Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, nhất là yêu cầu thật sự giải phóng được sức sản xuất, phát huy được mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế... Chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá, đồng thời giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích, đặc biệt là lợi ích chính đáng của người sản xuất; thực hiện mở rộng dân chủ, đề cao pháp chế; đổi mới về tổ chức và cán bộ phù hợp với cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý mới...

          Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, nhân dân phấn khởi bắt tay ngay vào việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương, của tỉnh. Sau khi rút kinh nghiệm làm điểm ở huyện Hải Hậu, đến cuối tháng 9-1988, toàn tỉnh có 695/721 hợp tác xã nông nghiệp triển khai đồng bộ các mặt theo tinh thần Nghị quyết 18 của Tỉnh ủy và Quyết định số 453 của ủy ban nhân dân tỉnh: Tiến hành đại hội xã viên thông qua phương án khoán mới và kiện toàn bộ máy quản lý hợp tác xã theo hướng tinh giản, gọn nhẹ; sắp xếp lại sản xuất, công bố diện tích đất giao cho từng hộ xã viên ổn định từ 10 đến 15 năm, tiến hành hoá giá, chuyển bán trâu, bò, nông cụ cho xã viên, xây dựng và củng cố các đội kỹ thuật trong hợp tác xã, công khai các khoản xã viên phải giao nộp cho hợp tác xã...

         Cơ chế khoán mới tạo điều kiện để kinh tế gia đình phát huy ưu thế, các hộ nông dân chủ động sản xuất, tận dụng đất đai, lao động, tích cực thâm canh nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng. Phong trào nông dân sản xuất giỏi, mô hình VAC (vườn, ao, chuồng) ngày một phát triển. Một số gia đình đầu tư vốn mua máy xay xát, máy nghiền thức ăn gia súc, mở xưởng cơ khí sản xuất và sửa chữa nông cụ, làm dịch vụ nông nghiệp. Trong đó nổi bật là các hợp tác xã Nghĩa Bình (Nghĩa Hưng), Yên Đồng (Ý Yên), Minh Tân (Vụ Bản)... Nhiều hộ hoặc nhóm hộ đứng ra nhận thầu từ vài ba đến hàng chục hécta, tự bỏ vốn và lao động để sản xuất như: Hợp tác xã Nghĩa Bình (Nghĩa Hưng) cho 4 nhóm hộ nhận thầu 35 ha đất bãi bồi ven sông để trồng cói; hợp tác xã Giao An (Xuân Thuỷ) cho một nhóm hộ nhận thầu 120 ha đất bãi bồi ven biển để nuôi tôm và trồng rau câu xuất khẩu. Đặc biệt, huyện Xuân Thuỷ đã giao 1.700 ha đất bãi cồn Ngạn cho 52 hộ nhận thầu để nuôi tôm xuất khẩu. Hầu hết các diện tích ao, hồ, đầm của hợp tác xã đều được hộ xã viên nhận thầu để nuôi thả cá. Toàn tỉnh có 5.700 ngư dân tự bỏ vốn mua sắm 1.250 phương tiện đánh bắt các loại thuỷ sản. Để khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế rừng, Tỉnh ủy chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh giao đất, giao rừng cho nhân dân, gắn lợi ích của người làm rừng với trách nhiệm bảo vệ và làm giàu vốn rừng. Chủ trương đó tạo nên phong trào nhận đất rừng và rừng để sản xuất kinh doanh. Nhiều hộ gia đình đã đầu tư vốn trồng cây lấy gỗ, cây ăn quả, tạo ra sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế. Trong những năm 1988-1990, phong trào phủ xanh đất trống đồi trọc của tỉnh đã cơ bản hoàn thành.

    Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cơ chế khoán mới cũng phát sinh tình trạng tranh chấp, lấn chiếm đất đai, hiện tượng này ngày càng trở nên phổ biến. Ngày 31-8-1988, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 47-CT/TW về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất. Quán triệt Chỉ thị 47 của Bộ Chính trị, Tỉnh ủy chỉ đạo ủy ban nhân dân tỉnh căn cứ vào Luật đất đai được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ đầu năm 1988 để tập trung giải quyết tình trạng sử dụng đất không đúng chính sách. Qua kiểm tra, ủy ban nhân dân tỉnh đã phát hiện và kiên quyết xử lý theo pháp luật những trường hợp tranh chấp, lấn chiếm ruộng đất; cấp, bán đất trái thẩm quyền... Sau đợt xử lý, kết hợp với tăng cường việc phổ biến trực tiếp Luật đất đai một cách sâu rộng và thường xuyên, công tác quản lý của các cấp chính quyền, ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức và cá nhân về đất đai từng bước đi vào nền nếp, những hiện tượng tranh chấp, sử dụng đất trái phép dần dần được khắc phục.

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm cánh đồng lúa xã Hải Vân, huyện Hải Hậu.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm cánh đồng lúa xã Hải Vân, huyện Hải Hậu.

         Sự chỉ đạo chặt chẽ, uốn nắn kịp thời những sai sót cùng với những giải pháp cụ thể của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh và cấp ủy các cấp trong quá trình thực hiện “khoán 10” đã làm cho nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh phát triển toàn diện, từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá. Năng suất lúa tăng 12%, nhịp độ tăng đều và liên tục trong 5 năm, từ 52,6 tạ/ha năm 1986 lên 67,64 tạ/ha năm 1990. Nhiều điển hình thâm canh tốt xuất hiện và được nhân rộng. Nhiều hợp tác xã trong tỉnh đạt trên 10 tấn/ha hai vụ như các hợp tác xã: Xuân Phương, Xuân Tiến, Xuân Kiên (Xuân Thuỷ); Hải Bắc, Hải Tân, Hải Xuân (Hải Hậu); Trung Đông (Trực Ninh), sản lượng lương thực bình quân 5 năm đạt 970.000 tấn/năm; vượt 5,5% mục tiêu Đại hội Đảng bộ lần thứ IV đề ra và tăng 11,8% so với bình quân 5 năm 1981-1985. Ba năm 1988-1990, mỗi năm, sản lượng đều đạt trên 1 triệu tấn lương thực. Bình quân lương thực đầu người đạt 314 kg/người/năm. Thắng lợi trên bước đầu đã khắc phục được khó khăn khi giáp hạt, đảm bảo nhu cầu cân đối lương thực trong tỉnh, đã có dự trữ và dành một phần cho xuất khẩu.

         Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong tỉnh từng bước được chuyển dịch một cách hợp lý, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, phù hợp với nền kinh tế hàng hoá. Đặc biệt, việc áp dụng khoa học - kỹ thuật vào chăn nuôi như cải tạo giống, sử dụng thức ăn công nghiệp... đã vực dậy ngành chăn nuôi sau một thời gian giảm sút. Năm 1990, đàn lợn có 740.000 con, tăng 11,4% so với năm 1986; sản lượng thịt xuất chuồng đạt 45.500 tấn, vượt 42,1% so với mục tiêu Đại hội IV và tăng 44,8% so với bình quân 5 năm 1981-1985; đàn trâu năm 1990 có 76.400 con, tăng 4.900 con; đàn bò có 60.400 con, tăng 20.400 con so với năm 1986; đàn gia cầm tăng nhanh, nhất là gà công nghiệp. Toàn bộ diện tích ao, hồ trong các hợp tác xã đã được tận dụng để nuôi trồng thuỷ sản. Chăn nuôi phát triển đã đáp ứng được nhu cầu thực phẩm trong tỉnh và hoàn thành vượt chỉ tiêu đóng góp với Nhà nước, đồng thời có khối lượng thịt đông lạnh đáng kể xuất khẩu sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Đặc biệt đàn trâu, bò tăng nhanh đã khắc phục được tình trạng thiếu sức kéo trong sản xuất nông nghiệp.

         Đi đôi với phát triển sản xuất nông nghiệp, tỉnh còn chú trọng chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Ngày 18-2-1986, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 35-NQ/TU về cải tiến cơ chế quản lý, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh địa phương. Nghị quyết nêu rõ quyền hạn của các xí nghiệp: Chủ động xây dựng kế hoạch; chủ động sản xuất kinh doanh và chủ động tài chính, tài sản, tín dụng. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, các xí nghiệp quốc doanh trong tỉnh tiến hành sắp xếp lại sản xuất, thực hiện giảm biên chế gián tiếp, rà soát lại định mức lao động, cân đối lại vật tư, chủ động gắn sản xuất với vùng nguyên liệu. Nhờ vậy, sản xuất công nghiệp năm 1986 có bước chuyển biến tiến bộ, giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa phương năm 1986 là 2,104 tỷ đồng, đạt 94,6% kế hoạch; sản xuất tiểu thủ công nghiệp đạt 94,1% kế hoạch. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã có một số sản phẩm mới được thị trường chấp nhận, một số sản phẩm được cấp dấu chất lượng Nhà nước. Tuy nhiên, do cơ chế quản lý không còn phù hợp, lại có những biến động phức tạp ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu nên một số đơn vị sản xuất hàng gia công cho các nước xã hội chủ nghĩa bị thua lỗ, không có việc làm hoặc việc làm không thường xuyên, xí nghiệp phải chuyến hướng sản xuất hoặc giải thể.

    Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Trung ương Đảng quyết định đột phá vào khâu phân phối lưu thông để từng bước khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo đà đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) đã thông qua Nghị quyết số 2-NQ/TW ngày 9-4-1987 về giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông. Nghị quyết nhận định: Từ sau cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985, tình hình kinh tế - xã hội nước ta ngày càng xấu đi. Nền kinh tế lâm vào lạm phát trầm trọng, bội chi ngân sách lớn, giá cả tăng vọt, đồng tiền mất giá nhanh, tiền lương thực tế giảm sút, đời sống của nhân dân lao động, trước hết là của công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn. Công bằng xã hội bị vi phạm, các hiện tượng tiêu cực tiếp tục phát triển. Tình hình đó tác động ảnh hưởng xấu tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt xã hội... Để tháo gỡ khó khăn, Nghị quyết Trung ương đã nêu tư tưởng chỉ đạo của Đảng là: Đổi mối cơ chế chính sách và tổ chức phân phối lưu thông theo hướng vận dụng đúng đắn các quy luật kinh tế, lấy kế hoạch hoá làm trung tâm, mở rộng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa gắn liền với đổi mới các khâu khác trong quản lý... Nghị quyết đặt mục tiêu: Giảm tỷ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân lao động (thường gọi là mục tiêu “4 giảm”).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.

         Ngay sau khi có Nghị quyết Trung ương 2, Tỉnh ủy họp từ ngày 21 đến ngày 23-4-1987 để nghiên cứu, quán triệt, đề ra nhiệm vụ và một số giải pháp cấp bách, đó là:

          Bổ sung một số quy định về giá cả, vật tư và tài chính nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp...

          Thực hiện tốt một số biện pháp cải tiến phân phối lưu thông, ổn định tiền lương và đời sống cán bộ, công nhân viên và nhân dân; giải quyết những vướng mắc về giá để đưa hàng hoá vào lưu thông, nghiêm cấm găm hàng chờ hưởng chênh lệch giá; thành lập công ty liên doanh lương thực, chuẩn bị điều kiện để chuyển mua bán lương thực sang kinh doanh, thực hiện bù giá các mặt hàng cung cấp theo định lượng còn lại (xà phòng, thịt lợn, đường) đồng thời chuẩn bị điều kiện tiến tới bù giá vào lương đối với gạo và chất đốt.

          Đổi mới tài chính và ngân hàng, thực hiện thu đúng, thu đủ các loại thuế, nhất là thuế công thương nghiệp; thực hành tiết kiệm chi; tăng cường quản lý tiền mặt, thực hiện việc thanh toán không dùng tiền mặt...

         Các chủ trương, giải pháp trên được thể nghiệm, từng bước thực hiện, song hiệu quả còn rất hạn chế. Trong buổi đầu chuyển đối cơ chế, cái cũ còn phổ biến và kìm hãm nặng nề, cái mới manh nha chưa đủ điều kiện thuyết phục, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn lâm vào khủng  hoảng nghiêm trọng. Tháng 6-1987, giá cả thị trường tự do tăng 360% so với cùng kỳ năm 1986, trong đó lương thực tăng 544%. Việc bù giá vào lương không còn ý nghĩa cải thiện đời sống, tiền lương thực tế của cán bộ công nhân viên giảm xuống chỉ bằng 37,9% so với tháng 9-1985. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã báo cáo Ban Bí thư Trung ương Đảng, nêu rõ quá trình triển khai và kết quả bước đầu thực hiện Nghị quyết Trung ương 2, đồng thời cũng đề cập đến những khó khăn, vướng mắc, những kiến nghị để Trung ương xem xét, tháo gỡ.

         Trước tình hình chung của cả nước, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba (khoá VI) họp từ ngày 20 đến ngày 28-8-1987 khẳng định: Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng là đúng đắn, song cần có bước đi thích hợp với điều kiện thực tế, vừa tích cực, vừa vững chắc. Hội nghị bổ sung những chủ trương và giải pháp cấp bách để giải quyết vấn đề đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 2, đồng thời ra Nghị quyết số 03-NQ/TW về chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế. Để triển khai Nghị quyết Trung ương 3, ngày 16-10-1987, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 10-NQ/TU về những việc cấp thiết triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba và Kết luận số 03 của Bộ Chính trị. Nghị quyết xác định: Kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển các hoạt động của nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, trước hết cần tập trung vào việc thực hiện mục tiêu “4 giảm”.

    Quán triệt Nghị quyết 10 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng các kế hoạch chuyên đề và chỉ đạo các ngành chức năng đổi mới cơ chế sản xuất hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp địa phương, coi trọng các thành phần kinh tế, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thúc đẩy sản xuất; phát huy quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các cơ sở. Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức tập huấn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các sở, ban, ngành, các huyện, thị, các giám đốc xí nghiệp về chủ trương, chính sách đổi mới cơ chế quản lý và kế hoạch thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Chủ trương của Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh đã giúp nhiều cơ sở chủ động sản xuất; liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng sản phẩm. Các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, các cơ sở sản xuất tư nhân được hình thành, khôi phục và phát triển. Mặc dù còn nhiều khó khăn về nguyên liệu, năng lượng và gặp sự giao thời về chuyển đổi cơ chế, chính sách, nhưng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của tỉnh vẫn giữ vững và có mặt phát triển. Giá trị sản lượng công nghiệp đạt 2,3 tỷ đồng, vượt 1,2% kế hoạch và tăng 10,02% so với năm 1986; trong đó, hàng tiêu dùng chiếm 69,1%, tăng 12% so với năm 1985, như: xe đạp tăng 52%; chiếu cói, muối tăng trên 20%, nông cụ tăng 28%, xi măng tăng 20%, gạch ngói tăng 5%... Các mặt hàng: vải, sợi, chăn... đạt mức cao nhất từ trước tới giai đoạn này với nhiều chủng loại phong phú, chất lượng cao hơn. Các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu được thay đổi trang thiết bị và mở rộng sản xuất. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1987 là 951 triệu đồng, trong đó vốn Trung ương cấp 350 triệu đồng, vốn ngân sách tỉnh 320 triệu đồng, vốn ủy thác 209 triệu đồng. Tỉnh tập trung đầu tư thực hiện 4 chương trình kinh tế - xã hội với những công trình lớn như: Nhà máy sợi đay, tôm đông lạnh, thịt đông lạnh; nâng cấp một số tuyến đường giao thông, nâng cấp và xây dựng mới một số trạm bơm.

         Năm 1988, Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh đã có những nghị quyết và quy định cụ thể về việc thực hiện các Nghị quyết lần thứ 3, 4, 5 của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý đối với các cơ sở sản xuất thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, Quyết định 217 và Chỉ thị 118 của Hội đồng Bộ trưởng về phát huy vai trò tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong và ngoài quốc doanh. Tỉnh đã tổ chức sơ kết, kiểm điểm việc thực hiện công tác quản lý công nghiệp. Kết quả là: Giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 2,413 tỷ đồng, cao hơn năm 1987 và đạt kế hoạch năm 1988, trong đó hàng tiêu dùng đạt 1,673 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 69,6%, tăng 0,5% so với năm 1987. Có 40% mặt hàng phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu vượt chỉ tiêu kế hoạch như dệt may, chiếu cói, thuốc chữa bệnh, tôm đông lạnh... Khu vực sản xuất ngoài quốc doanh có xu thế phát triển tốt, giá trị tổng sản lượng của các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp chiếm 75% giả trị sản lượng công nghiệp trong toàn tỉnh. Trong năm, có 9 hợp tác xã được thành lập với hơn 1.000 lao động và 98 tổ hợp sản xuất ra đời với 1.416 lao động. Nhiều địa phương đã khôi phục được các ngành nghề truyền thống, chủ yếu là khu vực kinh tế gia đình ở cả thành thị và nông thôn. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng ở tỉnh vẫn xuất hiện những đơn vị điển hình tiên tiến, đã năng động, sáng tạo trong cơ chế mới, đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao như: Xí nghiệp dệt Sơn Nam, Nhà máy dệt kim Thắng Lợi, Nhà máy tơ, Xí nghiệp tôm đông lạnh, Nhà máy cơ khí Hà Nam Ninh, Công ty xây lắp công nghiệp, Xí nghiệp tàu thuyền Quyết Thắng, Hợp tác xã cơ khí Nam Thanh (Nam Ninh); Hợp tác xã da Diên Hồng, Tổ hợp đúc đồng, Tổ hợp cơ khí Nam Thành (thành phố Nam Định).

         Từ giữa năm 1988, tình hình kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, của tỉnh nói riêng có nhiều chuyển biến tích cực trong nông nghiệp, công nghiệp và đời sống nhân dân. Nhiều tiềm năng lao động, đất đai, tiền vốn được khai thác và đầu tư cho sản xuất. Tốc độ tăng giá hàng và lạm phát đã được kiềm chế một bước, nạn đói được khắc phục.

         Từ ngày 20 đến ngày 29-3-1989, Ban Chấp hành Trung ương khoá VI họp Hội nghị lần thứ sáu để kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho 3 năm tới. Triển khai thực hiện Nghị quyết của Trung ương, ngày 5-6-1989, Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 11 đã họp và xác định: Đây là một trong những nghị quyết quan trọng nhất của Trung ương Đảng từ sau Đại hội VI đến nay, là cơ sở để tăng cường sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng và trong nhân dân để đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới nhằm đạt mục tiêu chung là ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế - xã hội.

    Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng, bổ sung cơ chế, chính sách, tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các đơn vị kinh tế quốc doanh được rà soát sắp xếp lại: Tiến hành giải thể các xí nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, tập trung giải quyết chế độ cho những lao động dôi dư; những xí nghiệp làm ăn có hiệu quả xác định lại phương hướng sản xuất theo cơ chế mới, thay thế, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, mở rộng các hình thức khoán gọn, khoán lương, khoán thưởng đi đôi với tinh giản biên chế. Đối với khu vực kinh tế tập thể (các hợp tác xã): đa dạng hoá về hình thức, nội dung và quy mô hoạt động, chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ quy định của pháp luật; chuyển từ hình thức gia công là chủ yếu sang sản xuất thành phẩm, đẩy mạnh liên doanh, liên kết, tự mua, tự bán nguyên liệu và sản phẩm; củng cố, kiện toàn bộ máy quản lý theo hướng tinh giản, gọn nhẹ; rà soát lại lực lượng lao động để cân đối thu chi. Đối với kinh tế tư nhân, cá thể: Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình; chính quyền các cấp, các ngành cần giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người, mọi nhà, mọi ngành nghề tham gia phát triển sản xuất. Giải toả các trạm kiểm soát đặt trên các trục đường giao thông gây cản trở việc giao lưu hàng hoá trên thị trường. Khuyến khích việc lưu thông lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng (trừ những mặt hàng Nhà nước cấm) trên địa bàn tỉnh. Khuyến khích kiều bào quê ở Hà Nam Ninh đầu tư vốn xây dựng các công trình kinh tế, văn hoá - xã hội tại địa phương. Động viên những người lao động và học tập ở nước ngoài gửi tiền, vật tư, thiết bị về cho gia đình phát triển sản xuất.

         Với chủ trương và những giải pháp đúng đắn trên, mặc dù khi chuyển đổi cơ chế còn nhiều khó khăn, lúng túng, nhưng một số cơ sở sản xuất quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp đã năng động, sáng tạo, đứng vững và bước đầu vượt qua thử thách; từng bước ổn định sản xuất, đổi mới quản lý, đổi mới kỹ thuật, chuyển dần sang hạch toán kinh doanh, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, giải quyết việc làm cho công nhân và đóng góp cho Nhà nước. Khu vực kinh tế tư nhân, cá thể có bước phát triển mạnh, khai thác được tiềm năng lao động, đất đai, tiền vốn và kỹ thuật của các hộ gia đình để phát triển sản xuất, góp phần làm tăng sản phẩm hàng hoá cho xã hội, tăng thu nhập cho gia đình. Đến cuối năm 1990, toàn tỉnh có hàng nghìn hộ gia đình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, thu mua nông sản xuất khẩu, mua sắm phương tiện làm dịch vụ vận tải, đấu thầu đất làm kinh tế trang trại... đạt hiệu quả cao.

         Chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh cụ thế hoá vào hoàn cảnh thực tế ở địa phương đã tạo được kết quả bước đầu hết sức quan trọng: Lao động, vật tư, kỹ thuật, nguồn vốn của các thành phần kinh tế được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Kinh doanh dịch vụ và kinh tế hộ gia đình đã phát triển ở cả đô thị và nông thôn, vừa tạo thêm việc làm cho người lao động, vừa thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Sự kết hợp giữa công nghiệp địa phương với công nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh có tiến bộ. Nhà máy Liên hợp Dệt và một số xí nghiệp Trung ương đã giúp đỡ vốn, kỹ thuật và nguyên liệu để một số xí nghiệp địa phương, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp có điều kiện đầu tư chiều sâu và giải quyết việc làm cho người lao động. Trong 5 năm (1986-1990), sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có sự chuyến biến bước đầu. Giá trị sản lượng công nghiệp địa phương bình quân 5 năm 1986-1990 tăng 14,3% so với 5 năm 1981-1985. Trong 16 ngành hàng công nghiệp có 12 ngành tăng so với 5 năm trước, trong đó ngành sản xuất da và giả da tăng 75,7%; điện tử tăng 48%; may mặc tăng 46%; xay xát, chế biến lương thực, thực phẩm tăng 12,9%...

         Tuy nhiên, những chuyển biến đó còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Khu vực kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, chất lượng hàng hoá thấp, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Hai năm 1989-1990, công nghiệp địa phương tiếp tục giảm sút, chỉ đạt 86% chỉ tiêu giá trị sản lượng, trong đó, hàng tiêu dùng đạt 76% kế hoạch. Đến cuối năm 1990, toàn tỉnh có gần 40% xí nghiệp quốc doanh, 60% hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp bị thua lỗ. Trong đó, một số đơn vị phải giải thể, đóng góp cho Nhà nước giảm, số lao động thiếu việc làm ngày một tăng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

    Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan là do tình hình thế giới có những biến động, thị trường Liên Xô và các nước Đông Âu bị chao đảo; hàng ngoại nhập tràn vào với mẫu mã đẹp, giá thành hạ, hàng địa phương không đủ sức cạnh tranh. Song chủ yếu vẫn là nguyên nhân chủ quan, do công nghiệp địa phương lạc hậu về công nghệ, máy móc cũ kỹ, tổ chức quản lý điều hành ở các xí nghiệp còn hạn chế, yếu kém, nhất là trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế. Sự chỉ đạo của các cấp chính quyền còn lúng túng, chậm tháo gỡ khó khăn, chưa định hướng sản xuất kịp thời cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện cơ chế mới.

         Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV: “Xuất - nhập khẩu và liên kết, liên doanh là một mũi nhọn kinh tế của tỉnh”; Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh tập trung chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu và nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh tế đối ngoại. Ngày 10-12-1988, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 30-NQ/TU về tăng cường chỉ đạo mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác kinh tế đối ngoại ở tỉnh Hà Nam Ninh. Nghị quyết xác định phương hướng, nhiệm vụ của công tác kinh tế đối ngoại là: Tận dụng khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh về lao động, đất đai, mặt nước và ngành nghề của địa phương; kết hợp với tranh thủ thế mạnh và lợi thế của ta trong quan hệ kinh tế quốc tế để nhanh chóng mở rộng và không ngừng nâng cao hiệu quả các hoạt động xuất, nhập khẩu là chính, nhằm tích cực góp phần thực hiện 4 chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh; thúc đẩy việc phân công lao động mới, tăng cường và đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật, từng bước tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý để đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống và góp phần tăng nguồn thu ngân sách địa phương.

         Triển khai Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng quy hoạch dài hạn công tác xuất, nhập khẩu; tiến hành kiện toàn tổ chức bộ máy; bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản lý và trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác xuất, nhập khẩu; chủ động tìm hiểu thị trường, nắm bắt thông tin, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu; đồng thời để ra những giải pháp đồng bộ, hợp lý trong tổ chức sản xuất, thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu như: Tập trung phát triển các loại cây lạc, đay, cói; mở rộng diện tích trồng các loại cây chuối, mơ, vải, nhãn, dứa; khôi phục và phát triển hàng thủ công mỹ nghệ và dệt kim; tích cực khai thác nuôi trồng thủy sản xuất khẩu, ủy ban nhân dân tỉnh còn chú trọng việc quản lý hoạt động thu mua hàng xuất khẩu, tăng cường chỉ đạo các hình thức ký kết hợp đồng và hỗ trợ vốn, kỹ thuật để người lao động yên tâm sản xuất; đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hoá để đáp ứng yêu cầu của thị trường. Những biện pháp ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực như cửa quyền, gây phiền hà trong việc thực hiện hợp đồng và thu mua hàng xuất khẩu được tích cực thực hiện.

          Mặc dù thị trường thế giới có biến động lớn, nhưng nhờ có chủ trương đúng đắn và sự chỉ đạo kịp thời nên chương trình sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động kinh tế đổi ngoại của tỉnh có bước phát triển tốt. Từ năm 1986 trở đi, giá trị kim ngạch xuất khẩu của tỉnh mỗi năm một tăng. Trên 70% giá trị các mặt hàng xuất khẩu được khai thác từ nguồn nguyên liệu địa phương, trong đó đã xây dựng được ba mặt hàng chủ lực là: Lạc, đay, cói; đồng thời tận dụng nguồn lao động kỹ thuật dồi dào trong tỉnh để phát triển các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Một số cơ sở công nghiệp chế biến và sản xuất gia công để tạo thêm những mặt hàng xuất khẩu mới như: Tôm - thịt đông lạnh, sợi đay, hàng may mặc, gốm sứ... được xây dựng. Thị trường xuất, nhập khẩu của tỉnh từng bước được mở rộng. Trên cơ sở đảm bảo kế hoạch xuất khẩu theo hiệp định Nhà nước đã ký với Liên Xô và các nước Đông Âu, tỉnh tiến hành các dịch vụ xuất khẩu sang một số nước tư bản. Từ cuối năm 1986, tỉnh đã xây dựng được mối quan hệ xuất, nhập khẩu trực tiếp với tỉnh Uđômxay của Lào (hai tỉnh kết nghĩa với nhau). Khối lượng trao đổi hàng hoá mỗi năm một tăng nhanh, qua đó củng cố thêm tình đoàn kết hữu nghị giữa hai tỉnh và hai nước Việt - Lào. Sự chỉ đạo của một số ngành và nhiều huyện, thành, thị đối với công tác xuất, nhập khẩu đã có những chuyển biến tiến bộ, một số huyện có ưu thế vươn lên như Ý Yên, Xuân Thủy, Nam Ninh. Năm 1990, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của toàn tỉnh vượt 10,4% so với chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV đề ra. Bình quân 5 năm 1986-1990, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của tỉnh tăng 62,8% so với bình quân 5 năm 1981-1985. Hoạt động xuất khẩu đã góp phần nhập vật tư, thiết bị và hàng tiêu dùng phục vụ sản xuất và đời sống ở địa phương. Cùng với mở rộng hoạt động xuất, nhập khẩu, tỉnh tranh thủ các nguồn viện trợ của một số tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ đầu tư vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

    Tuy hoạt động xuất khẩu tăng cả về khối lượng và tốc độ nhưng còn thấp so với yêu cầu và tiềm năng của tỉnh. Hàng xuất khẩu còn phân tán và chủ yếu là nông sản thô, chưa có mặt hàng chủ lực. Thị trường mở ra chậm và bấp bênh làm cho các ngành, nghề xuất khẩu gặp khó khăn, có đơn vị bị phá sản. Việc quản lý và sử dụng tiền, hàng viện trợ, ngoại tệ xuất khẩu chưa chặt chẽ và hiệu quả thấp.

         Từ năm 1986, ngành giao thông vận tải từng bước ra khỏi cơ chế bao cấp, có sự mở  rộng và phát triển của lực lượng vận tải ngoài quốc doanh. Hệ thống giao thông được cải tạo, nâng cấp, xây dựng, đáp ứng yêu cầu đi lại và phát triển kinh tế của tỉnh. Tháng 3-1989, cầu Đò Quan bắc qua sông Đào được khởi công xây dựng, nối liền thành phố Nam Định với 6 huyện phía nam tỉnh. Phong trào xây dựng giao thông nông thôn được phát động với phương châm “3 chính”: dân làm là chính, vật liệu tại chỗ là chính, kỹ thuật phổ cập là chính.

         Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, các hoạt động văn hoá xã hội được các cấp ủy đảng, chính quyền và các đoàn thể hết sức chú trọng.

         Tỉnh tiếp tục thực hiện chương trình cải cách giáo dục, bảo đảm cho sự nghiệp giáo dục các ngành học, cấp học phát triển cân đối, vững chắc, đồng bộ, phù hợp với khả năng kinh tế của tỉnh trong từng thời gian. Ngày 24-1-1986, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 34-NQ/TU về Công tác nuôi dạy trẻ và giáo dục phổ thông trong 5 năm 1986-1990; đề ra mục tiêu phấn đấu trong 5 năm là: ổn định, củng cố các nhà trẻ, phấn đấu 90% các cháu 5 tuổi tới lớp mẫu giáo; hoàn thành có chất lượng công tác phổ cập cấp I; củng cố hệ thống trường phổ thông, trường vừa học vừa làm, trường sư phạm; ưu tiên đầu tư kinh phí cho giáo dục, kiện toàn đội ngũ giáo viên... Thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới giáo dục của Đảng, Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh chỉ thị cho ngành giáo dục tỉnh phải tích cực đổi mới cách nghĩ cách làm để nâng cao chất lượng đào tạo, đồng thời phải gắn mục tiêu đào tạo với cuộc sống, phục vụ tích cực các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương. Các mặt hoạt động được ngành giáo dục phấn đấu triển khai đồng bộ. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống nhưng tỉnh vẫn giữ vững được quy mô và nhịp độ phát triển giáo dục; các ngành học, cấp học được phát triển khá đồng đều; các chỉ tiêu kế hoạch đều đạt từ 94% trở lên. Về chất lượng thi tốt nghiệp các cấp I, II, Hà Nam Ninh là một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước. Năm học 1987-1988, có 36% trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo, nhà trẻ đến lớp, 96% trẻ em 6 tuổi được vào học lớp 1 cải cách; 469/526 xã, phường đã hoàn thành phổ cập giáo dục cấp I. Những vùng khó khăn như Xuân Thuỷ, Nghĩa Hưng có nhiều hình thức chủ động thúc đẩy tiến độ phổ cập. Công tác bổ túc văn hoá được duy trì khá. Toàn tỉnh có 76% cán bộ chủ chốt huyện, thành, thị; 36% cán bộ xã, phường và hợp tác xã đạt trình độ văn hoá cấp III. Tỉnh xây dựng được mạng lưới trường tiên tiến và tiên tiến xuất sắc, tiêu biểu là Trường mẫu giáo xã Hải Châu (Hải Hậu), Trường bổ túc văn hóa xã Hải Cường (Hải Hậu), Trường sư phạm 10+2... Từng địa phương cũng nổi lên những trường học xuất sắc từng mặt và xuất sắc toàn diện; các huyện Hải Hậu, Nam Ninh, Ý Yên và thành phố Nam Định đạt tiên tiến.

         Quán triệt nội dung nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức trong các nhà trường theo Nghị quyết số 19-NQ/TU ban hành ngày 1-11-1988 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ngành giáo dục đã tập trung đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, đạo đức trong toàn bộ hệ thống giáo dục của tỉnh. Bên cạnh việc thực hiện chương trình giáo dục chính trị, đạo đức của Uỷ ban cải cách giáo dục Nhà nước, các nhà trường còn vận dụng những kinh nghiệm đã có, đề ra nhiều biện pháp cụ thể như giáo dục tập thể, giáo dục cá biệt, giáo dục ngoài giờ, công tác chủ nhiệm, công tác đoàn, đội, xây dựng tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa, kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội... Việc củng cố kỷ cương, nền nếp chuyên môn được tăng cường, chất lượng cấp I, nhất là lớp 1 được chú ý. Tỉnh đã có những biện pháp tích cực nhằm thực hiện có chất lượng các môn thay sách giáo khoa và thực hiện chương trình cải cách giáo dục. Việc triển khai giáo dục luật pháp, giáo dục quốc phòng, giáo dục thể chất, thẩm mỹ được đẩy mạnh. Phong trào nhân dân tham gia xây dựng cơ sở vật chất cho trường học được duy trì liên tục rộng khắp và có hiệu quả. Hà Nam Ninh được Bộ Giáo dục đánh giá là tỉnh có phong trào xây dựng trường lớp mạnh nhất; nhiều địa phương xây dựng được trường lớp kiên cố cao tầng, tự mua sắm trang thiết bị và đồ dùng dạy học. Trong 9 năm liền (1981-1990), ngành giáo dục - đào tạo tỉnh được Bộ Giáo dục công nhận là đơn vị tiên tiến xuất sắc, là một trong những tỉnh có phong trào giáo dục mạnh nhất cả nước. Bên cạnh những kết quả đó, ngành giáo dục của tỉnh vẫn còn những hạn chế yếu kém là tình trạng học sinh bỏ học còn cao, chất lượng đạo đức học sinh có chiều hướng giảm sút; số giáo viên dôi dư của cấp II, cấp III chưa được sắp xếp hợp lý, một số chế độ đối với giáo viên mầm non chưa được cơ sở thực hiện nghiêm túc.

Thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 26-10-1987 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về một số chính sách khoa học - kỹ thuật để thực hiện bốn chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh, các cấp ủy đảng và chính quyền đã quan tâm chỉ đạo về công tác khoa học - kỹ thuật. Một số thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu và vào y tế, giáo dục, mang lại hiệu quả thiết thực. Phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được mở rộng ở một số ngành và cơ sở. Hoạt động khoa học - kỹ thuật cải tiến, vận dụng tốt theo phương thức ký kết hợp đồng kinh tế - kỹ thuật ở các ngành, địa phương và cơ sở. Hệ thống cơ quan quản lý khoa học - kỹ thuật từ tỉnh đến cơ sở được tăng cường, góp phần đưa hoạt động khoa học - kỹ thuật vào nền nếp, thúc đẩy quá trình gắn khoa học - kỹ thuật với sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, hoạt động khoa học - kỹ thuật của tỉnh chưa đều, chất lượng và hiệu quả còn thấp. Đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật của tỉnh đông nhưng cơ cấu không phù hợp, cán bộ khoa học - kỹ thuật giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề còn quá ít. Công tác thông tin khoa học - kỹ thuật chưa được quan tâm đúng mức, việc tổng kết và nhân điển hình tiên tiến thực hiện chưa thường xuyên và thiếu kịp thời.

Triển khai thực hiện 12 chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu và phong trào “Năm dứt điểm” về y tế được tỉnh chỉ đạo ngành y tế phối hợp với các cấp, các ngành chủ động phòng ngừa dịch bệnh, kịp thời phát hiện, bao vây, giải quyết các ổ dịch, không để lây lan và hạn chế đến mức thấp nhất tử vong do dịch bệnh gây ra. Các huyện như Hải Hậu, Nam Ninh, Xuân Thủy đã triển khai hiệu quả, thiết thực việc bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho nhân dân, góp phần tích cực và trực tiếp đẩy mạnh sản xuất và các mặt hoạt động khác. Một số bệnh xã hội như phong, lao, đau mắt hột, đục thủy tinh thể... giảm rõ rệt. Chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em được chỉ đạo triển khai tốt. Hằng năm có trên 90% các cháu trong độ tuổi được tiêm phòng theo quy định. Công tác khám, chữa bệnh ở các bệnh viện, trạm y tế có nhiều cố gắng; nhiều tấm gương tốt về tinh thần trách nhiệm và thái độ tận tình của thầy thuốc đối với bệnh nhân được nhân dân khen ngợi. Việc giải quyết thuốc cho ngành y, cả thuốc nam và tân dược có nhiều cố gắng, từng bước đáp ứng theo yêu cầu chữa bệnh của nhân dân. Mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở thường xuyên được củng cố và tăng cường về số lượng cán bộ, cơ sở vật chất kỹ thuật, cả về y và dược. Đến năm 1990 toàn tỉnh có trên 11.000 cán bộ y tế, trong đó 1.400 người có trình độ đại học. Nhiều đồng chí rất nhiệt tình, trách nhiệm với công việc, tích cực nâng cao trình độ chuyên môn, phấn đấu để xứng đáng với danh hiệu Lương y như  từ mẫu; ba cán bộ y tế tỉnh vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Thầy thuốc ưu tú. Mặc dù tình hình kinh tế còn khó khăn, nhưng với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, cơ sở vật chất kỹ thuật của các bệnh viện, phòng khám đa khoa, đặc biệt là các trạm y tế ở xã phường được tăng cường. Nhiều trạm y tế đảm nhiệm tốt việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân, khám chữa bệnh thông thường cho nhân dân tại cơ sở. Dưới sự chỉ đạo của sở Y tế các huyện đã xây dựng được mạng lưới y tế nhân dân, các tủ thuốc gia đình; nhiều địa phương sử dụng đội ngũ cán bộ y tế về hưu và những người am hiểu các bệnh thông thường, sử dụng các loại thuốc thông thường để bảo vệ sức khỏe nhân dân. Công tác y tế cũng trực tiếp góp phần thực hiện công tác kế hoạch hoá gia đình, giảm tỷ lệ tăng dân số, bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Tuy vậy, phong trào quần chúng giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường, phòng chống dịch bệnh ở một số nơi còn yếu; công tác tuyên truyền, giáo dục về sức khoẻ trong nhân dân chưa được chú ý thường xuyên, đúng mức. Mạng lưới y tế cơ sở chưa đồng đều, một số nơi thiếu trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật; đội ngũ cán bộ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ sức khoẻ, điều trị bệnh cho nhân dân. Tình trạng xuống cấp ở các bệnh viện, nhất là trong việc khám chữa bệnh chậm được khắc phục.

Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình đã được các cấp ủy đảng, chính quyền và các đoàn thể quan tâm chỉ đạo, thực hiện, ủy ban nhân dân tỉnh tiến hành củng cố và tăng cường chỉ đạo hoạt động của uỷ ban Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và Ban chỉ đạo cuộc vận động kế hoạch hoá gia đình ở các huyện, thành, thị, các cơ quan, xí nghiệp; đồng thời đầu tư kinh phí cho các hoạt động dịch vụ sinh đẻ có kế hoạch. Tỉnh ủy xác định kết quả thực hiện công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình là một tiêu chí đánh giá chất lượng tổ chức đảng và phân loại đảng viên; kỷ luật nghiêm những đảng viên vi phạm chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình. Nhờ vậy, tốc độ tăng dân số tự nhiên của tỉnh giảm từ 2,22% năm 1985 xuống còn 1,96% năm 1990. Song công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình vẫn còn hạn chế trong nhận thức của người dân, nhất là tư tưởng trọng nam khinh nữ của nhiều người. Do đó, tốc độ tăng dân số vẫn còn cao, đặc biệt ở các vùng nông thôn, vùng tập trung đồng bào theo đạo Thiên Chúa.

    Thực hiện Nghị quyết số 05 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 21 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 9-6-1988, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 17-NQ/TU về thực hiện Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn hoá - văn nghệ. Quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, cấp ủy và chính quyền các cấp, lực lượng trực tiếp hoạt động văn hoá và các tầng lớp nhân dân đã nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng về văn hóa, văn nghệ; xác định vị trí quan trọng của văn hoá, văn nghệ trong sự nghiệp cách mạng, trong xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Hoạt động văn hoá, thông tin có nhiềụ khởi sắc, luôn luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng trong quần chúng, giữ vững ổn định chính trị, xã hội trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, củng cố niềm tin trong nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm Nam Định.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm Nam Định.

Trong những năm 1987-1990, hoạt động văn hoá, thông tin, phát thanh, truyền hình, thể thao có nhiều hình thức sôi nổi, phong phú, phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị, nhất là nhiệm vụ kinh tế - xã hội và công cuộc đổi mới ở địa phương. Hoạt động văn hoá, báo, đài chú trọng phát hiện và biểu dương cái mới, cái tốt; mạnh dạn phê phán những tiêu cực cản trở quá trình đổi mới đất nước; góp phần tích cực mở rộng dân chủ hoá, công khai hóa, đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất đạo đức con người mới, làm cho đời sống văn hoá của địa phương ngày càng phong phú và lành mạnh. Các hoạt động văn nghệ chú trọng phát huy truyền thống, khai thác tiềm năng; vừa phát triển toàn diện các loại hình hoạt động cả chuyên nghiệp, nghiệp dư và phong trào quần chúng; vừa có trọng tâm, trọng điểm nhằm giữ gìn, khai thác những thế mạnh truyền thống độc đáo của địa phương. Nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật, mang đậm tính nhân văn được dư luận đồng tình ủng hộ và hoan nghênh.

Ngày 8-9-1988, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Thông tri số 18-TT/TU về việc mở đợt sinh hoạt chính trị “Gia đình cách mạng gương mẫu, người công dân kiểu mẫu”, chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh các hoạt động thông tin cổ động, xoay quanh chủ đề xây dựng nếp sống mới, người công dân kiểu mẫu. Phong trào đọc sách báo, hoạt động câu lạc bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn được tăng cường, đời sống tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Hoạt động mê tín dị đoan và những văn hoá phẩm độc hại được hạn chế. Năm 1990, từ huyện, thành, thị đến tỉnh đều tổ chức thành công Ngày hội văn hoá - thể thao tại địa phương. Tỉnh cử đoàn vận động viên tham dự Đại hội văn hoá - thể thao toàn quốc và giành được thành tích xuất sắc. Huyện Hải Hậu 10 năm liên tục giữ vững lá cờ đầu xây dựng đời sống văn hoá cấp huyện của cả nước. Tỉnh Hà Nam Ninh 3 năm liền được nhận cờ Đơn vị xuất sắc của Bộ Văn hoá.

         Thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TU ngày 13-1-1986 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc tăng cường lãnh đạo thực hiện tốt chính sách thương binh - xã hội, mặc dù trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn, các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh đã cố gắng chăm lo thực hiệc tốt các chế độ đối với các đối tượng chính sách. Nhiều địa phương, đơn vị quan tâm giải quyết việc làm, xây dựng quỹ bảo trợ xã hội, trợ cấp cho những gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với cách mạng. Hoạt động xây nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm, đón thương binh nặng về nuôi dưỡng tại gia đình trở thành phong trào rộng khắp trên địa bàn tỉnh. Vào các dịp lễ, tết hằng năm, cấp ủy, chính quyền các cấp đều tổ chức tới thăm hỏi, động viên và tặng quà các gia đình liệt sĩ, thương binh, lão thành cách mạng. Trong khi nguồn kinh phí từ bảo hiểm xã hội mới trang trải được 40% kế hoạch, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh đã cố gắng tạo nguồn để chi trả lương, trợ cấp cho các gia đình chính sách và những đối tượng hưởng lương hưu đúng kỳ hạn, giảm bớt tình trạng khất nợ, chậm trả lương như những năm trước đây. Thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị số105 của Hội đồng Bộ trưởng, công tác hậu phương quân đội trên địa bàn tỉnh có nhiều cố gắng. Từ tháng 1-1988 đến tháng 9-1990, tỉnh tiếp nhận 62 thương binh nặng về điểu trị an dưỡng tại Đoàn 586; tiếp nhận về bàn giao 318 hồ sơ liệt sĩ; điều tra xác minh 192 trường hợp mất tích, trong đó đã báo tử được 78 trường hợp; hoàn thành xét duyệt 5 vạn huân, huy chương các loại; hàng trăm ngôi nhà tình nghĩa được xây dựng, hàng nghìn sổ tiết kiệm, hàng trăm nghìn gói quà được trao tận tay gia đình liệt sĩ, thương binh và những người có công với cách mạng.

    Là tỉnh nông nghiệp, có dân số đông, bước vào thời đổi mới, vấn đề giải quyết việc làm và đời sống là vấn đề bức xúc được tỉnh đặc biệt coi trọng. Ngày 24-2-1986, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 36-NQ/TU về việc phân bố lao động và dân cư trên địa bàn tỉnh. Triển khai nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh đã vận dụng cơ chế, chính sách mới, chú ý phát triển các thành phần kinh tế, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động, không hạn chế tư nhân sử dụng lao động. Bên cạnh đó, nhiều cán bộ, công nhân thực hiện Quyết định số 176 của Hội đồng Bộ trưởng đã tự mình tạo ra việc làm mới, tăng thêm thu nhập cho gia đình và góp phần giải quyết khó khăn cho xã hội. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân đi xây dựng các vùng kinh tế mới được đẩy mạnh. Cấp ủy và chính quyền cơ sở đã triển khai đồng bộ các giải pháp để thực hiện chỉ tiêu kế hoạch cấp trên giao. Trong 5 năm 1986-1990, toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 5 vạn lao động, trong đó có gần 3 vạn lao động đi xây dựng các vùng kinh tế mới ở Lâm Đồng, Đắc Lắc, Quảng Ninh... Tuy nhiên, số người không có việc làm và thiếu việc làm thường xuyên hằng năm vẫn trên dưới 5 vạn người, chưa kể số lao động nông nhàn trong nông thôn. Thực tế việc xây dựng các vùng kinh tế mới còn gặp nhiều khó khăn, do nhiều lý do, số người bỏ vùng kinh tế mới trở lại quê có xu hướng tăng...

Bộ đội Biên phòng tỉnh phối hợp với dân quân các địa phương ven biển tuần tra giữ vững an ninh tuyến biển.
Bộ đội Biên phòng tỉnh phối hợp với dân quân các địa phương ven biển tuần tra giữ vững an ninh tuyến biển.

         Trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nước ta có những diễn biến phức tạp. Đảng ta luôn xác định sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược lâu dài của toàn Đảng, toàn dân. Triển khai thực hiện Nghị quyết số 33 về nhiệm vụ quốc phòng 5 năm 1986-1990 của Bộ Chính trị, ngày 11-3-1987, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 03-NQ/TU về nhiệm vụ quân sự địa phương, chỉ đạo các cấp ủy Đảng, nhân dân và lực lượng vũ trang trong tỉnh đẩy mạnh việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, củng cố nền quốc phòng toàn dân ngày càng vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đáp ứng mọi yêu cầu, nhiệm vụ phát triển trong tình hình mới; thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội...

         Triển khai thực hiện nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, cấp ủy và chính quyền các cấp đã tổ chức quán triệt trong Đảng bộ và quần chúng nhân dân thấu suốt quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân trong tình hình mới. Được các cấp, các ngành phối hợp chặt chẽ, nhân dân địa phương hết lòng ủng hộ, giúp đỡ, lực lượng vũ trang địa phương đã nỗ lực phấn đấu vươn lên về nhiều mặt. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đã kiện toàn tổ chức, biên chế lực lượng thường trực theo tinh thần nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và quy định của Quân khu, thu hẹp đầu mối đơn vị để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới; kiện toàn cơ quan chính trị các cấp theo cơ chế mới. Việc xây dựng lực lượng dự bị động viên ở tỉnh, huyện và cơ sở (chú trọng vào hai trung đoàn của tỉnh, các tiểu đoàn của huyện, các đại đội của cơ sở được triển khai tích cực, các hoạt động đã đi vào nền nếp cùng với khung A, sắp xếp cán bộ nguồn theo quy định của trên. Tổ chức biên chế trong dân quân tự vệ, hải đội, hải đoàn được chấn chỉnh lại theo hướng lấy chất lượng là chính; đảm bảo tỷ lệ quy định: Dân quân (lực lượng chiến đấu xung kích) chiếm từ 6% đến 8% so với dân số, tự vệ chiếm từ 26% đến 35% so với cán bộ, công nhân, viên chức.

         Triển khai chỉ lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu về quy định trực chiến ven biển, các trận địa pháo bờ biển được duy trì và phát triển tốt, kết hợp chặt chẽ sẵn sàng chiến đấu với lao động sản xuất như các trận địa Nghĩa Thắng, Nghĩa Lâm (Nghĩa Hưng); Hải Triều, Hải Thịnh (Hải Hậu); Giao Lâm (Xuân Thuỷ). Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh phối hợp với Công an và Bộ đội Biên phòng tỉnh làm tham mưu cho Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức các hội nghị triển khai công tác bảo vệ bờ biển đạt kết quả tốt. Tỉnh đã thường xuyên duy trì tổ chức kiểm tra định kỳ để đánh giá chất lượng toàn bộ các công trình quốc phòng trên địa bàn tỉnh.

         Thực hiện Quy định số 77-QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương, ngày 8-8-1986, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Quyết định số 1820-QĐ/TU thành lập Đảng bộ Bộ đội biên phòng. Công tác biên phòng luôn bám sát tình hình, bước đầu có nhiều đổi mới về nội dung, phương pháp công tác, vươn ra quản lý vùng biển với nhiều mô hình cụ thể, coi trọng xây dựng phong trào quần chúng và tấn công các loại tội phạm.

    Cùng với việc củng cố, kiện toàn tổ chức, đảm bảo sẵn sàng chiến đấu, công tác huấn luyện của lực lượng vũ trang địa phương được đẩy mạnh. Thông qua các cuộc diễn tập, báo động kiểm tra, số tiểu đoàn dự bị động viên của huyện đều bảo đảm thời gian và quân số. Trong quá trình huấn luyện, các đơn vị đã thực hiện nghiêm mệnh lệnh của Quân khu, gắn huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao bản lĩnh và ý chí chiến đấu cho lực lượng vũ trang; cải tiến nội dung và phương pháp sát với yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng. Công tác đăng ký khám tuyển nghĩa vụ quân sự, xét duyệt tiêu chuẩn được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Các đợt giao quân đều diễn ra nhanh gọn, an toàn, đủ số lượng, đảm bảo chất lượng.

         Lực lượng vũ trang tỉnh còn giữ vai trò xung kích trong công tác phòng chống bão lụt, úng hạn; sản xuất được một khối lượng khá về lương thực, thực phẩm; hoàn thành một số chỉ tiêu trong kế hoạch mở đường giao thông, khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng... góp phần giải quyết công tác hậu cần tại chỗ trong mọi tình huống.

Diễn tập thực binh các lực lượng vũ trang.
Diễn tập thực binh các lực lượng vũ trang.

         Từ cuối năm 1988, biên giới phía Bắc và vùng ven biển, hải đảo nước ta có những diễn biến mới, tình hình càng nghiêm trọng khi pháo đạn từ bên kia biên giới liên tục bắn vào một số cao điểm ở nước ta như Bình Liêu (Quảng Ninh), Vỵ Xuyên (Hà Tuyên)... Hải quân nước ngoài đã công khai tấn công quần đảo Trường Sa. Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị và lệnh “Động viên cục bộ” của Hội đồng Bộ trưởng, ngày 28-3-1990, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 25-CT/TU về lãnh đạo nhiệm vụ chiến đấu, yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đã ra lệnh toàn bộ lực lượng vũ trang của tỉnh chuyển sang hoạt động thời chiến; thực hiện lệnh “Động viên cục bộ”, mở rộng lực lượng, nhanh chóng khôi phục, kiện toàn, phát triển các đơn vị thường trực cả bộ binh và các binh chủng, cả lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ. Các đơn vị trong lực lượng vũ trang toàn tỉnh được củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đủ quân số và trang bị đủ sức làm nòng cốt để cùng với toàn dân chiến đấu liên tục, dài ngày; quyết thắng địch trong mọi tình huống, đánh thắng ngay từ trận đầu, tuyến đầu; bảo vệ vững chắc các mục tiêu kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, xã hội; đảm bảo tỉnh là một khu vực phòng thủ vững chắc, sẵn sàng chi viện cho các chiến trường trong quân khu và cả nước. Lực lượng vũ trang và nhân dân trong tỉnh cùng với đồng bào và chiến sĩ cả nước ngày đêm nêu cao cảnh giác, tích cực chuẩn bị cả về tinh thần và lực lượng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc quê hương và Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

         Trong khi Đảng bộ tỉnh cùng cả nước đang nỗ lực vượt qua khó khăn để phát triển kinh tế - xã hội thì lại phải tiếp tục đương đầu với những biến động, phức tạp mới về chính trị. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, bằng thủ đoạn “diễn biến hoà bình” đã làm suy yếu chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Những sai lầm trong cải tổ, cải cách dẫn tới khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng không thể cứu vãn nổi ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những trọng điểm tấn công phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Lợi dụng thời điểm Việt Nam đang chuyển đổi cơ chế, chúng đẩy mạnh chiến tranh phá hoại nhiều mặt: Cài gián điệp, tình báo móc nối kích động bọn phản động trong nước và những phần tử bất mãn, tập trung đả kích, xuyên tạc, vu cáo Đảng ta không mạnh dạn cải cách thể chế chính trị, hạn chế dân chủ; tuyên truyền khuếch trương tôn giáo, nhất là dịp phong 117 thánh “Tử vì đạo” ở Việt Nam, lén lút đưa vào nước ta các tạp chí, sách báo có nội dung xấu, kích động biểu tình và bãi công đòi tự do tư sản... ở trong nước, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, một số cá nhân trong cơ quan nhà nước lợi dụng sơ hở của chính sách mới đã móc ngoặc, tuồn hàng Nhà nước ra ngoài, vay tiền Nhà nước, vay quỹ tín dụng rồi biển thủ không thanh toán. Nạn hụi, họ, vay nặng lãi và vỡ hụi tràn lan; tệ trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút, nạn văn hoá phẩm đồi truỵ có chiều hướng gia tăng. Trước tình hình đó nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đặt lên hàng đầu. Đây là một trong những nhiệm vụ cấp bách trước mắt của toàn Đảng, toàn dân ta.

    Ngày 30-11-1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07-NQTW về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới. Triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chỉ thị của Ban Bí thư ngày 11-4-1988, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 14-NQ/TU về nhiệm vụ công tác an ninh trong tình hình mới. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, các cấp ủy đảng và chính quyền đã quán triệt và làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù. Các địa phương bắt tay ngay vào việc kiện toàn và củng cố lực lượng an ninh, lực lượng vũ trang theo yêu cầu của nhiệm vụ mới; thành lập và củng cố, nâng cao chất lượng các tổ an ninh nhân dân ở thôn, xóm, tổ dân phố, ban an ninh xã, phường, thị trấn, cơ quan, xí nghiệp; nâng cao chất lượng hoạt động của lực lượng dân quân, tự vệ. Trong những năm 1987-1988, lực lượng công an tỉnh đã phát hiện và thu giữ nhiều tài liệu có nội dung xấu, kích động,  xuyên tạc, vu cáo từ nước ngoài gửi về; phát hiện hàng trăm vụ án kinh tế; xử lý nghiêm những cán bộ có sai phạm trong quản lý kinh tế, vi phạm pháp luật... Thực hiện Chỉ thị số 135-CT/HĐBT ngày 14-5-1989 của Hội đồng Bộ trưởng, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 22-CT/TU về tăng cường công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới. Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện và quyết định mở đợt cao điểm phát động quần chúng tấn công trấn áp tội phạm mang tên Chiến dịch 135. Từ tỉnh đến cơ sở đều thành lập Ban chỉ đạo Chiến dịch 135 do đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp làm trưởng ban. Đồng chí Đinh Gia Huấn - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh làm Trưởng ban chỉ đạo của tỉnh. Ngày 28-8-1989, Chiến dịch 135 mở đầu, đột phá tại thành phố Nam Định. Ngay ngày ra quân đầu tiên, dưới sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo Chiến dịch 135, lực lượng công an phối hợp với Ban Chỉ huy quân sự, bảo vệ dân phố, thanh niên xung kích đã đồng loạt bất ngờ bắt gọn 34 đối tượng lưu manh chuyên nghiệp. Đồng thời, Ban chỉ đạo Chiến dịch 135 tỉnh đã chỉ đạo các huyện, thị trong tỉnh đồng loạt ra quân, đẩy mạnh khí thế của quần chúng nhân dân cùng phối hợp với các lực lượng chức năng tấn công trấn áp tội phạm; gắn chặt tấn công tội phạm với lập lại trật tự giao thông, trật tự công cộng và kiểm tra, chấn chỉnh sản xuất, kinh doanh, quản lý thị trường, chống buôn lậu, sản xuất hàng giả, chống thất thu thuế; sắp xếp lại trật tự các chợ, nhà ga, bến tàu và các địa bàn công cộng trong toàn tỉnh. Sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân và sự phối hợp khá chặt chẽ giữa lực lượng công an, toà án, viện kiểm sát, bộ đội, dân quân tự vệ đã tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi Chiến dịch 135. Song song với việc vận động quần chúng tấn công trấn áp tội phạm, thực hiện Chiến dịch 135 các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể thành phố Nam Định đã vận động nhân dân xây dựng các mô hình “Tiếng kẻng an ninh”, “Ngọn đuốc an ninh”, “Chiếc gậy an ninh’ “Vây chặt bắt gọn tội phạm”... đã tạo ra khí thế áp đảo tội phạm. Các mô hình trên đã được nhân rộng ra các xã phường, thị trấn toàn tỉnh Hà Nam Ninh. Trong 3 tháng cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, với khí thế của phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, toàn tỉnh lập hồ sơ bắt 229 đối tượng đi tập trung cải tạo; triệt phá 78 băng, ổ, nhóm tội phạm chuyên nghiệp; điều tra khám phá 27 vụ cướp; bắt giữ 54 tên, thu 5 súng, 2 lựu đạn; vận động hơn 100 đối tượng ra đầu thú... Nhiều vụ việc tiêu cực, buôn lậu, vỡ hụi, nợ nần dây dưa, tham ô lớn được khám phá đưa ra truy tố trước pháp luật, thu lại tiền của cho Nhà nước và nhân dân. Các địa phương trong tỉnh thành lập được các trung đội an ninh quốc phòng làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự ở cơ sở. Tỉnh Hà Nam Ninh là đơn vị lá cờ đầu toàn quốc triển khai, thực hiện có hiệu quả và có nhiều sáng kiến, kinh nghiệm nổi bật trong thực hiện Chỉ thị 135 của Hội đồng Bộ trưởng; được Bộ Nội vụ khen thưởng , thông báo cho các tỉnh, thành phố trong cả nước học tập.

          Trong 5 năm (1986-1990), công tác xây dựng lực lượng an ninh được tiến hành thường xuyên và đạt hiệu quả. Ban công an xã, bảo vệ dân phố, bảo vệ cơ quan, tổ an ninh,tổ hoà giải được thành lập và hoạt động ở tất cả các xã phường, cơ quan, doanh nghiệp; ở các thôn, xóm, tổ dân phố trên địa bàn toàn tỉnh. Lực lượng công an phối hợp với các ngành trong khối nội chính tập trung vào nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật, các quy định của địa phương; giáo dục nhân dân sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, chống các hành vi phạm pháp, chống bọn lợi dụng tôn giáo gây rối công cộng được tăng cường. Tỉnh đã giải quyết cơ bản các vụ tồn đọng, xử lý nghiêm minh và kịp thời các đối tượng vi phạm pháp luật, góp phần tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý và điều hành của chính quyền các cấp.

    Để nâng cao chất lượng hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, năm 1987, Trung ương Đảng chủ trương tiếp tục triển khai công tác xây dựng đảng, chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. Ngày 12-9-1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 04-NQ/TW về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, ngày 10-11-1987, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 12-NQ/TU về kế hoạch thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Quá trình nghiên cứu, quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương và của tỉnh, tuyệt đại bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân đều nhất trí cao với chủ trương của Đảng và cho rằng đây thực sự là một cuộc vận động lớn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống.

Lễ ra quân chiến dịch 135 thực hiện Chỉ thị 135-CT/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về công tác bảo vệ trật tự an toàn xã hội năm 1989.
Lễ ra quân chiến dịch 135 thực hiện Chỉ thị 135-CT/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về công tác bảo vệ trật tự an toàn xã hội năm 1989.

          Công tác tiếp nhận đơn, thư khiếu tố của quần chúng được cấp ủy, chính quyền các cấp đặc biệt coi trọng, giải quyết và trả lời cụ thể từng vụ việc có liên quan đến từng đối tượng. Từ tỉnh đến các huyện, thành thị và đảng ủy trực thuộc đã tổ chức rà soát lại đội ngũ cán bộ, đảng viên và lập danh sách những cán bộ, đảng viên có liên quan trong đơn thư khiếu tố của quần chúng. Thực tế cho thấy số cán bộ, đảng viên có những vi phạm phải xem xét, xử lý không nhiều, nhưng ảnh hưởng tiêu cực đến sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng, sự trong sạch trong bộ máy quản lý nhà nước, vì vậy đòi hỏi phải được xem xét, xử lý nghiêm minh, kịp thời. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, các cấp uỷ đảng đã tích cực, tập trung lực lượng kiên quyết giải quyết những vụ việc chưa được kết luận. Chỉ trong một thời gian ngắn, các cấp ủy đã xem xét và giải quyết 50 cán bộ có sai phạm thuộc diện tỉnh quản lý, 313 cán bộ có sai phạm thuộc diện huyện quản lý và 80% cán bộ có sai phạm thuộc diện cơ sở quản lý. Chấp hành Chỉ thị 21 của Ban Bí thư về tiến hành đợt tự phê bình và phê bình, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo các huyện, thành, thị ủy và đảng ủy trực thuộc tổ chức đợt tự phê bình và phê bình với thái độ nghiêm túc. Nội dung kiểm điểm cá nhân đã chú trọng đến lập trường, quan điểm, nhận thức tư tương về đường lối đổi mới, gắn với tinh thần trách nhiệm, tác phong, lối sống... Cuộc vận động theo Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị và đợt tự phê bình và phê bình theo Chỉ thị 21 của Ban Bí thư thực sự trở thành một đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn cả trong Đảng và ngoài xã hội, có tác dụng cảnh tỉnh và ngăn chặn sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, sự trong sạch trong bộ máy quản lý nhà nước và làm lành mạnh hoá các mối quan hệ xã hội; tạo nên sự đoàn kết thống nhất cao trong Đảng và trong nhân dân. Tinh thần trách nhiệm và khả năng tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của cán bộ, đảng viên các cấp, các ngành, các địa phương được nâng lên một bước.

         Tháng 3-1990, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) thông qua 2 nghị quyết quan trọng: Nghị quyết 8A về tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta và Nghị quyết 8B về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 8, ngày 30-8-1990, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 27-NQ/TU về tăng cường công tác tư tương trong tình hình hiện nay. Nghị quyết nhấn mạnh: Công tác tư tưởng phải bám sát tình hình thực tiễn, góp phần phát hiện và giải quyết những vấn đề nóng bỏng của tỉnh, tạo không khí đoàn kết, nhất trí, dân và Đảng một lòng, giữ vững ổn định chính trị, đấu tranh chống mọi luận điệu xuyên tạc công cuộc đổi mối, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ giữa Đảng với nhân dân... Quán triệt các nghị quyết Trung ương và nghị quyết của Tỉnh ủy, công tác chính trị, tư tưởng của Đảng bộ được đổi mới và nâng cao một bước, các hoạt động tuyên truyền, giáo dục đã chú trọng cổ vũ các nhân tố mới, phổ biến sâu rộng những kinh nghiệm hay trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, đồng thời cũng thẳng thắn phê phán những quan điểm, nhận thức sai trái lệch lạc; lên án mạnh mẽ những luận điệu xuyên tạc đường lối đổi mới, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng... Công tác tư tưởng thực sự góp phần củng cố và nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân vào chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng của địa phương, giữ vững ổn định chính trị để thực hiện có hiệu quả các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh.

    Thực hiện Thông báo số 46 của Ban Bí thư và Quyết định số 227 của Hội đồng Bộ trưởng về việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể Tỉnh ủy tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế ở cấp tỉnh, bộ máy các sở, ban, ngành được sắp xếp lại trên cơ sở vị trí, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế xã hội của mỗi cơ quan. Bộ máy được thu gọn lại theo hướng  phù hợp nhất, sáp nhập, giải thể, chuyển quyền quản lý; đã giảm 14 trên tổng số 44 cơ quan (bằng 32%). Theo đó, số  phòng, ban giảm 56 phòng (bằng 41%), số cán bộ lãnh đạo sở, ban ngành giảm 62 đồng chí (bằng 50%) và giảm 110 đồng chí trưởng, phó phòng (bằng 40,5%), hợp nhất một số ban của Đảng. Cấp huyện, thành thị: 100% số đơn vị thực hiện sắp xếp tổ chức cán bộ, giảm được 128/356 phòng, ban (bằng 37%). Các tổ chức đoàn thể ở huyện, thành thị giảm trên 200 đầu mối (bằng 10%). Trường Đảng huyện giao cho Ban Tuyên giáo huyện quản lý. Qua sắp xếp bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức được xác định rõ hơn, bớt cấp trung gian, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ làm việc theo chế độ chuyên viên.

          Cùng với việc sắp xếp tổ chức và tinh giản biên chế, Tỉnh ủy đã tập trung lãnh đạo nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức; thực hiện thành nền nếp quy trình đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí và sử dụng cán bộ đảm bảo công khai, dân chủ, mang tính kế thừa và phát triển. Năm 1988, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh điều chuyền công tác và phân công lại 19 đồng chí ủy viên Ban Chấp hành, 16 đồng chí tỉnh ủy viên trực tiếp làm bí thư huyện, thành, thị ủy; trong đó có 2 đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Năm 1989-1990, tỉnh đã thực hiện thí điểm bí thư huyện ủy kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân huyện tại huyện Ý Yên và huyện Vụ Bản; bộ máy gọn nhẹ, chỉ đạo tập trung thống nhất và có hiệu quả. Tuy chưa được triển khai nhân rộng, song đây cũng là tiền đề nghiên cứu đổi mối công tác lãnh đạo đảng ở cơ sở.

          Ngày 4-9-1990, Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 28-NQ/TU về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng. Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 28 của Tỉnh ủy, chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được nâng lên một bước. Năm 1990 có 1.880/1.886 tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ tỉnh dự phân loại, trong đó vững mạnh đạt 46,80%; loại khá đạt 43,40%; số cơ sở đảng yếu kém còn 9,78%. Đảng bộ có 144.212 đảng viên dự phân loại, trong đó đảng viên đủ tư cách là 123.985 đồng chí, chiếm 85,98%; số đảng viên chưa đủ tư cách là 17.254 đồng chí, chiếm 11,96%; số đảng viên không đủ tư cách 2.973 đồng chí, chiếm 2,06%.

         Công tác phát triển đảng được Đảng bộ xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của Đảng bộ nhằm trẻ hoá đội ngũ và tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Từ năm 1987 đến tháng 9-1990, toàn Đảng bộ kết nạp 10.144 đảng viên; trong đó đảng viên nữ là 3.043 đồng chí, chiếm 29,99%; công nhân là 1.817 đồng chí, chiếm 17,91%; Đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là 6.510 đồng chí, chiếm 64,17%; Công giáo là 250 đồng chí, chiếm 2,46%.

         Công tác kiểm tra đảng được Tỉnh ủy chỉ đạo thường xuyên, nghiêm túc; tổ chức đảng và đảng viên vi phạm được xử lý kịp thời, chính xác. Ngày 21-7-1987, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 08-CT/TU về tăng cường lãnh đạo công tác kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng. Từ năm 1986 đến năm 1990, mỗi đảng viên được kiểm tra ít nhất một lần. Qua kiểm tra có 77,23% đảng viên chấp hành tốt; 16,92% đảng viên chấp hành chưa tốt; 5,79% đảng viên có vi phạm. Toàn tỉnh xử lý kỷ luật 5.944 đảng viên, chiếm 4,28% tổng số đảng viên trong Đảng bộ. Việc xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời những đảng viên sai phạm có tác dụng giáo dục, hạn chế những tiêu cực; từng bước làm trong sạch đội ngũ đảng viên, giúp cho tổ chức đảng quản lý đảng viên được chặt chẽ hơn, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng.

         Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, phương thức lãnh đạo hệ thống chính trị của Đảng bộ có bước đối mới. Các cấp ủy đảng nhận thức rõ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của chính quyền nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân lao động thông qua các tổ chức đoàn thể. Qua đó đã phát huy được tính chủ động, sáng tạo của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, khắc phục được tình trạng bao biện, làm thay trong những năm trước đây. Trong 5 năm 1986-1990, công tác vận động quần chúng của Đảng bộ được tăng cường. Tỉnh ủy chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng bám sát nhiệm vụ chính trị của tỉnh, thực hiện chủ trương đổi mới công tác vận động quần chúng của Đại hội VI, và Nghị quyết 8B của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) để kiện toàn tổ chức, bộ máy, từng bước đổi mới phương thức hoạt động, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước...

    Ngày 23-1-1987, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 01-CT/TU về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá VIII và hội đồng nhân dân hai cấp huyện, xã tương đương. Quán triệt và triển khai thực hiện Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ngày 19-4-1987, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá VIII và đại biểu hội đồng nhân dân hai cấp huyện, xã và tương đương diễn ra dân chủ, an toàn và đúng luật; lựa chọn được những đại biểu đủ tiêu chuẩn bầu vào Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.

Khai mạc Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VIII, ngày 17-6-1987.
Khai mạc Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VIII, ngày 17-6-1987.

         Thực hiện Chỉ thị số 53 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Quyết định của Hội đồng Nhà nước, ngày 28-8-1989 Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 23-CT/TU về lãnh đạo cuộc bầu cử hội đồng nhân dân ba cấp nhiệm kỳ 1989-1994. Chỉ thị nêu rõ: Lãnh đạo cuộc bầu cử lần này phải quán triệt tinh thần đối mới của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, phát huy mạnh mẽ quyần làm chủ của nhân dân, kiện toàn thường trực hội đồing nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp. Sau quá trình tìm hiểu, giới thiệu ứng cử viên và hiệp thương theo luật  định, ngày 19-11-1989, có 99,20% cử tri trong toàn tỉnh đi bỏ phiếu bầu đại biểu hội đồng nhân dân ba cấp. Cuộc bầu cử diễn ra an toàn, dân chủ, đổi mới, đúng luật và thành công tốt đẹp ở tất cả các điểm bỏ phiếu. Cử tri trong tỉnh đã lựa chọn được 99/100 đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh; 878/884 đại biểu hội đồng nhân dân huyện, thành phố, thị xã; 14.384/14.609 đại biểu hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn. Sau bầu cử, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp từ tỉnh đến xã phường, thị trấn nhanh chóng được kiện toàn và đi vào hoạt động theo Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Hội đồng nhân dân tỉnh lần đầu tiên có cơ quan hội đồng chuyên trách. Tại phiên họp thứ nhất Hội đồng nhân dân tỉnh, đồng chí Trần Văn Truyền - ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy được bầu làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, đồng chí Đặng Khôi - ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy làm Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh.

         Trong nhiệm kỳ 1989-1994, hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp có chuyển biến tích cực theo hướng phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm của người đại biểu hội đồng nhân dân. Các kỳ họp của hội đồng nhân dân đã bàn và quyết định những vấn đề thiết thực, trọng yếu có liên quan trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương. Đại biểu hội đồng nhân dân đã gần gũi, gắn bó với cử tri, tập hợp được những ý kiến phản ánh tâm tư, nguyện vọng và những kiến nghị của cử tri; thông báo kịp thời tới cử tri những hoạt động và nghị quyết của hội đồng nhân dân để cử tri thực hiện và giám sát hoạt động của hội đồng nhân dân.

         Ủy ban nhân dân các cấp từng bước đổi mới việc quản lý và điều hành; đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, chấp hành triệt để những chỉ thị, quy định của cấp trên, cụ thể hoá nghị quyết của cấp ủy đảng thành chương trình, kế hoạch và những biện pháp thực hiện. Qua thực tế hoạt động, vai trò và hiệu lực của chính quyền các cấp được nâng cao. Nét nổi bật của thời kỳ này là ủy ban nhân dân các cấp đã thể hiện trách nhiệm của mình trong việc tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu tố; điều hành và quản lý nhà nước bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng; bước đầu phân định rõ chức năng quản lý nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh. Các ngành thanh tra và cơ quan pháp luật có nhiều cố gắng trong việc phục vụ nhiệm vụ chính trị ở địa phương, phối kết hợp chặt chẽ trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, chống tiêu cực, chống buôn lậu. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước, đặc biệt là chủ tịch, phó chủ tịch các xã, phường, thị trấn được bồi dưỡng kiến thức cơ bản về quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quản lý kinh tế bằng pháp luật. Do đó, hiệu lực của các cấp chính quyền được nâng lên qua việc ban hành các quyết định, quy định trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và kết quả thực hiện những quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên.

         Bước vào thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có những chuyền biến tích cực.

         Mặt trận Tổ quốc đã xây dựng mạng lưới rộng khắp đến cơ sở, Ban công tác Mặt trận được thành lập ở các cụm dân cư và thôn, xóm, tổ dân phố; nhiều nơi, dưới Ban công tác Mặt trận còn có Tổ công tác Mặt trận, nhóm tình nghĩa, tổ hoà giải. Mặt trận các cấp có nhiều cố gắng trong việc vận dụng và tổ chức thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Đảng và chính quyền, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, Mặt trận các cấp tích cực vận động nhân dân tự bỏ vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, phát triển dịch vụ, phát triển kinh tế VAC (vườn, ao, chuồng), mở doanh nghiệp tư nhân... Nét nổi bật trong sinh hoạt của Mặt trận ở cơ sở là vận động, tổ chức đời sống xã hội ở khu dân cư như: sửa sang đường sá, giữ gìn vệ sinh công cộng, hoà giải nội bộ, thực hiện nếp sống mới, xây dựng quỹ bảo thọ chăm sóc người già, tổ chức phong trào Ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền, vận động xây dựng các Nhà tình nghĩa...

    Công đoàn các cấp phối hợp với chính quyền tổ chức phong trào quần chúng thi đua thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội và xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, nổi bật là phong trào Lao động giỏi. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý mới, nhiều công đoàn cơ sở đã tham gia phương án sắp xếp lại sản xuất, phân loại lao động. Ở khu vực sản xuất kinh doanh, nhiều công đoàn cơ sở tích cực phối hợp với giám đốc tìm mọi biện pháp bảo đảm việc làm, mở rộng các hình thức trả lương sản phẩm, lương khoán, lương doanh số để ổn định thu nhập của công nhân viên chức. Nhiều công đoàn cơ sở đã hỗ trợ, giúp đỡ đoàn viên phát triển kinh tế phụ gia đình như tăng gia, chăn nuôi, gia công hàng hóa, tổ chức dịch vụ... tạo thêm thu nhập chính đáng cho người lao động.

         Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh không ngừng lớn mạnh, phát triển về số lượng và chất lượng, đã từng bước vận động để thích ứng với cơ chế mới. Ngày 26-6-1987, Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh lần thứ IV được tiến hành. Đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm vụ của công tác đoàn và phong trào thanh niên trong nhiệm kỳ 1987-1990. Sau Đại hội, Tỉnh đoàn phát động phong trào Xây dựng chi đoàn vững mạnh, tổ chức các cuộc thi Bí thư đoàn giỏi, Chi đội trưởng giỏi, Phụ trách đoàn giỏi... tạo nên không khí thi đua sôi nổi trong toàn Đoàn, thu hút hàng chục ngàn cán bộ, đoàn viên tham gia. Phong trào thanh niên trong tỉnh đã chuyển hướng hoạt động để phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, tập trung vận động đoàn viên, thanh niên làm kinh tế, tự giải quyết việc làm và đời sống như phong trào Thanh niên nông thôn sản xuất, kinh doanh giỏi trong thanh niên nông thôn. Năm 1990, có 940 công trình thanh niên, tiêu biểu là công trình Đắp 1 triệu mét khối đất đê, Trồng 2 triệu cây mùa xuân, Cứu 2.700 ha lúa bị ngập úng... Thanh niên công nhân có phong trào Tổ sản xuất thanh niên, hội thi Tay nghề thanh niên, Xây dựng nếp sống văn hoá mới.. Trong thanh niên cán bộ, viên chức có phong trào Lao động trẻ giỏi... Mặt trận an ninh – quốc phòng hằng năm đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyển quân, góp phần thực hiện có hiệu quả Chiến dịch 135 của ngành công an. Trong 5 năm 1986-1990, tổ chức đoàn đã giới thiệu 8.853 đoàn viên ưu tú dự lớp bồi dưỡng tìm hiểu về Đảng (lớp đối tượng) và đã có 6.510 đoàn viên ưu tú được kết nạp vào Đảng, chiếm 64,1% tổng số đảng viên mới kết nạp.

          Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đẩy mạnh thực hiện hai cuộc vận động: Giúp nhau làm kinh tế gia đình và nuôi dạy con, và Sinh đẻ có kế hoạch, chăm sóc sức khoẻ phụ nữ. Ngày 13-4-1987, Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh lần thứ IV được tiến hành. Đại hội xác định phương hướng nhiệm vụ của Hội từ năm 1987 đến năm 1991. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự chỉ đạo của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, các cấp hội phụ nữ trong tỉnh đã đoàn kết, động viên chị em nỗ lực vươn lên cùng Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội  với nhiều hình thức như: Giúp vốn hoặc tín chấp cho chị em vay vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh, chăn nuôi, dịch vụ, làm kinh tế gia đình; tích cực tham gia cuộc vận động Kế hoạch hoá gia đình... Công tác hội có nhiều đổi mới, thu hút trên 80% phụ nữ trong tỉnh tham gia sinh hoạt. Nhiều chị em làm cán bộ hội đã trưởng thành, được bầu vào cấp ủy, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp. Hội đồng nhân dân tỉnh nhiệm kỳ 1989-1994 có tỷ lệ đại biểu nữ là 14,14%; hội đồng nhân dân huyện có tỷ lệ đại biểu nữ là 28,64%; hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn có tỷ lệ đại biểu nữ là 18,40%.

         Hội Nông dân tỉnh tập trung vào việc giáo dục, động viên nông dân thực hiện cơ chế khoán mới, khai thác mọi tiềm năng về vốn, vật tư, đất đai để thâm canh tăng năng suất trồng trọt và chăn nuôi. Hội lấy việc phát triển kinh tế gia đình để thúc đẩy sản xuất hàng hoá; mở các lớp tập huấn phổ biến kinh nghiệm thâm canh và mở rộng diện tích vụ đông, tổ chức hội nghị biểu dương những nông dân sản xuất giỏi, những đơn vị thâm canh tốt. Đến năm 1990, nhiều hộ nông dân đã thoát nghèo, xuất hiện hàng trăm gia đình làm ăn giỏi. Phong trào xây dựng hội ở cơ sở xã, thị trấn được tăng cường, thu hút hầu hết nông dân vào tổ chức Hội.

         Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, ngày 22-3-1990, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Quyết định số 720-QĐ/TU về việc thành lập Hội Cựu chiến binh tỉnh. Đến cuối năm 1990, hoạt động của tổ chức hội từ tỉnh đến cơ sở đã bước đầu đi vào nền nếp, là chỗ dựa tin cậy của tổ chức đảng và chính quyền. Vai trò và vị thế của Hội ngày càng được phát huy và nâng cao.

         Năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và Nghị quyết Đại hội lần thứ  IV của Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ và nhân dân Hà Nam Ninh đã nỗ lực phấn đấu, mạnh dạn đổi mối, quyết tâm xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế của tỉnh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đã thu được những thắng lợi bước đầu rất quan trọng từng bước hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư có sự chuyển biến theo hướng giải phóng các năng lực sản xuất, tập trung vào 4 chương trình kinh tế - xã hội và đạt được những kết quả tích cực, có mặt đạt khá, nhất là sản xuất lương thực, thực phẩm. Đời sống của nhân dân tuy có nhiều khó khăn nhưng đã từng bước ổn định và có một bộ phận được cải thiện, góp phần cùng cả nước vượt qua thời kỳ suy giảm trầm trọng về kinh tế, giữ vững ổn định chính trị trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có diễn biến phức tạp; đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội. Công tác quân sự địa phương được đẩy mạnh. Sinh hoạt dân chủ trong Đảng và trong nhân dân bước đầu được mở rộng. Hoạt động của tổ chức đảng gắn với nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở địa phương từng bước được đổi mới theo hướng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý, điều hành của chính quyền, chú trọng phong trào cách mạng của quần chúng thông qua hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.

          Tuy nhiên, đây là chặng đường đầu trong công cuộc đổi mới của Đảng, các nhân tố cũ và mới còn đan xen, mâu thuẫn nhau gay gắt; chủ trương, chính sách mới đang ở bước đầu triển khai, chưa phát huy đầy đủ tác dụng; cách nghĩ, cách làm, lối sống của thời bao cấp kéo dài vẫn còn nặng nề, nên những kết quả đạt được chưa nhiều, chưa vững chắc. Mặc dù vậy, Đảng bộ và nhân dân Hà Nam Ninh đã tích luỹ được một số kinh nghiệm quý, tạo ra những tiền đề cần thiết để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn, vững tin hơn trong những năm tiếp theo.

Họ Mai Trà Trung Họ Mai Hải Nam Họ Mai Hải Hậu Họ Mai Nam Định Họ Mai Việt Nam