Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Hải Nam

CHƯƠNG 1
MẢNH ĐẤT, CON NGƯỜI HẢI NAM TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945

I. VÀI NÉT VỀ ĐỊA LÝ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH LÀNG, XÃ

Hải Nam một trong số xã lớn của huyện Hải Hậu, nằm ở vùng đất bồi ven biển theo dải Sông Hồng. Từ xa xưa, con người đã đến đây đăng đó để sinh sống tục gọi là Trại Đăng.

Từ là Trại Đăng sau thành xóm, làng trù phú thì lúc đầu chỉ là những cá thể riêng lẻ, đến khi dân cư ngày một đông đã có sự quy tụ dòng họ. Những họ đến sớm là họ Lê, họ Nguyễn, họ Mai, họ Trần…Theo bia ký tại chùa Trà Hải Trung, của họ Lê, gia phả các họ cũng như các cụ già cao tuổi kể lại thì cách đây hơn 520 năm đã có mảnh đất này và là xã có từ thời nhà Lê (đời vua Lê Thánh Tông). Ông cha chúng ta từ Hội Khê Bắc và Trà Thượng (Xuân Trường) và xã Thạch Câu huyện Nga Sơn (Thanh Hoá) đã đến đây đăng đó để sinh sống.

Năm 1479 vua Lê Thánh Tông đi chiêm thành có ghé qua Trại Đăng đã khen ngợi công khai phá và xây dựng của nhân dân ở đây và thể theo nguyện vọng của nhân dân đã quyết định cho  thành lập làng, xã.

- Làng, xã được thành lập cách đây trên 400 năm (thời Long Đức). Triều đình nhà Lê (Chúa Trịnh) đã xuống chiếu chỉ xác nhận hai làng Trà Trung và Hội Nam thành 2 xã thuộc tổng Kiên Trung, huyện Hải Hậu và làng Hội Khê Ngoại thành xã thuộc tổng Kiên Lao huyện Xuân Trường.

*.Xuất xứ xã Trà Trung:

- Hải Hậu  Trần phả tộc cho biết:

+ Khoảng năm 1675 - 1705 cụ Trần Đức Tông quê ở Cát Chử, huyện Nam Trân đến định cư ở Trà Hải.

+ Khoảng Lê Cảnh Hưng (1740 - 1786) có thêm các họ tới: Họ Mai ở Trà Thượng xuống; họ Hoàng ở Cẩm Hà ra; họ Nguyễn ở Xuân Trường tới; họ Đỗ ở Quần Anh vào.

Các họ cùng hợp lực khai hoang, phá hóa xây đền thờ Triệu Quang Phục, xây chùa Lệnh Ứng, các xứ đồng dựng miếu mạo gọi là Đồng, Đình, Văn, Vũ, Phú, Quý, Xuân, Ro để nhân dân cúng lễ.

 Đến cháu sáu đời của Trần Đạo Trung là Trần Thế Tuyển làm lý trưởng tổ chức chia Trà Trung làm 3 thôn: Trà Thượng về Xuân Trường. Trà Trung, Trà Hạ về Kiên Lao tổng.

- Năm 1888 thành lập huyện Hải Hậu.

+ Thôn Trà Trung, Trà Hạ thuộc tổng Kiên Trung huyện Hải Hậu.

- Đầu năm 1953 trước tình hình nhiệm vụ mới, cấp trên quyết định xác nhập thôn Trung Thành (xã Phan Châu Trinh cũ) vào xã Hải Nam.

- Đến tháng 3 /1956 lại tách thôn Trung Thanh ra khỏi xã Hải Nam để thành lập xã Hải Vân. Đồng thời xác nhập thôn Hội Khê Ngoại xã Xuân Hoà (huyện Xuân Trường) và Trại Hà Quang (xã Hải Phúc) vào xã Hải Nam.

*. Xã Hội Khê:

- Theo bia Thần Đạo dựng năm Duy Tân thứ 9 (1915) tại Nhà Từ xã Hải Nam (Hải Hậu) thì con cháu Lê Niệm được nhà nước xét là dòng công thần, đặc cách cho tuỳ ý dựng ấp.

- Khoảng năm Thái Hoà, Diêu Ninh (1433 - 1459) và trong dòng họ có người từ Trung Đô vào huyện Vũ Tiên - phủ Kiến Xương (Thái Bình). Sau lại di sang huyện Giao Thuỷ dựng ấp tại xóm giữa đặt tên theo quê cũ là Hội Khê. Thời gian đó đất bãi chưa có người, các cụ đã mở đất, mở bãi dựng là là một trong 5 tổ dựng làng.

Khi vua Lê Thánh Tông đi đánh chiêm thành qua đây khen là có công lập ấp bèn chuẩn cho lập làng, xã.

Ngày nay, dòng họ Lê Hội Khê vẫn coi mình là con cháu của Lê Niệm.

Trong thời gian sác nhập thôn Trung Thành vào xã Hải Nam cấp trên đã điều hoà trên dưới 200 mẫu ruộng của Hải Nam sang Hải Vân.

Đây thực sự là một tình cảm, tình người, tình giai cấp đã biết nhường cơm, xẻ áo của người nông dân với nhau. Cũng có thể coi đây là người cùng xã, tình làng, tình xóm tắt lửa tối đèn có nhau. Có phúc cùng hưởng, có khổ cùng chia.

Trong đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước từ ngàn năm xưa nhân dân ta rất anh dũng, kiên cường nói chung trong đó có nhân dân xã Hải Nam.

Kể từ đó cho tới năm 1945 các làng xã ở đây ngày càng phát triển, dân cư đông đúc thêm, nghề nông mở mang, đời sống thịnh vượng. Xã hộ lúc này thuộc xã hội phong kiến, thuộc địa, người nông dân phải chịu áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến và thực dân Pháp cai trị. Làng, xã ở đây cũng như các làng, xã ở nơi khác trên đất nước Việt Nam có áp bức là có đấu tranh. Nhân dân Hải Nam đã cùng nhân dân cả nước đứng lên làm cuộc cách mạng tháng 8 thành công, mở ra kỷ nguyên mới, ky nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

 Cách mạng tháng 8 vĩ đại thành công nhân dân đã thực sự làm chủ cuộc đời mình. Ngay sau ngày Việt Minh giành chính quyền ở huyện. Các làng, xã ở đây đã thiết lập chính quyền cách mạng. Uỷ ban lâm thời ra đời vào ngày 23/8/1945 (Trà Hải Trung là xã thành lập chính quyền sớm ở huyện Hải Hậu). Hội Khê ngoại (Xuân Trường) cũng thành lập chính quyền cách mạng ngày 23/8/1945. Hội Khê Nam sau một ngày là ngày 21/8/1945.

Thành lập chính quyền  xong. Ngày 06 tháng giêng năm 1946 nhân dân xã Hải Nam cùng với nhân dân cả nước, nô nức đi bầu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước công nông đầu  tiên ở khu vực Đông Nam Châu Á.

Tháng 12/1946 cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, có sự chỉ đạo của Trung ương đứng đầu là Hồ Chủ Tịch  đã quyết định chuyển từ uỷ ban hành chính sang uỷ ban kháng chiến hành chính xã. Thực hiện chủ trương trên tháng 6/1947 hai xã Trà Trung và Hội Khê Nam được thành lập hai xã mới lấy tên là xã Hải Nam thuộc huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định.

Hải Nam ngày nay là một xã rộng chiều dài 8 km, chiều rộng 3 km. Hải Nam có vị trí khá quan trọng, nằm cạnh trục đường 21 Nam Định - Chợ Cồn  và đường 21Nam Định - Quất Lâm. Phía Tây giáp xã Hải Vân, phía Bắc và Đông Bắc giáp xã Xuân Hoà (huyện Xuân Trường), xã Giao Thịnh, xã Giao Lâm (Giao Thuỷ). Phía Tây giáp xã Hải Hưng,  Hải Thanh. Phía Nam giáp xã Hải Hà, Hải Phúc, Hải Lộc.

Hải Nam là một xã có diện tích canh tác 1.175 mẫu Bắc Bộ đứng thứ hai của huyện, dân số đứng thứ ba của huyện. Lại nằm theo dải sông Hồng được thiên nhiên ưu đãi có khả năng khai thác tiềm năng, đất đai và lao động, phát triển nông nghiệp toàn diện. Cây lúa là xã trọng điểm về sản xuất của huyện, có thể hàng năm có thể sản xuất đến 2, 3 vụ. Nhân dân có tập quán thâm canh cây lúa đưa năng suất ngày càng đi lên, chăn nuôi gia súc gia cầm và nuôi cá phát triển mạnh. Ngành nghề mở mang nhất là nghề trồng cói, dệt chiếu phục vụ xuất khẩu với giá trị kinh tế lớn, cung cấp hàng năm về sản lượng, nông sản, hàng hoá vào loại khá của huyện Hải Hậu.

 Mặc dù điều kiện thiên nhiên rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp nhưng dưới chế độ thực dân phong kiến người nông dân Hải Nam vẫn phải sống cuộc đời lầm than, cơ cực đói rách quanh năm.

II.TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HOÁ, XÃ HỘI HẢI NAM TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8

Dưới chế độ phong kiến và đặc biệt từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng cấu kết chặt chẽ với giai cấp địa chủ phong kiến thì đời sống của người dân Hải Nam cũng như nhân dân cả nước rất khổ cực, ruộng đất là tư liệu sản xuất chính của người nông dân đã bị địa chủ, cường hào chiếm đoạt hầu hết. Hải Nam trước kia có 29 địa chủ bằng 4 % số hộ nhưng chúng đã chiếm 51,2 % ruộng đất. ở Hội Khê Nam có 427 mẫu ruộng công điền thì bọn hào lý chiếm 212 mẫu bán cho bọn địa chủ khác, địa chủ ở Thức Hoá, Giao Hoan, Giao Thuỷ chiếm 97 mẫu ruộng. Địa chỉ Cẩn, Am ở Hội Khê Ngoại cấy trên 100 mẫu. Nếu tính cả ruộng đất của Phú Nông của các phe giáp, ruộng Thần Từ, Phật Tử thì bằng 76 % số ruộng đất trong toàn xã. Trong khi đó nông dân lao động với 95, 6 % số hộ mà chỉ có 30% ruộng đất, ruộng đất của nông dân thường là xấu, khó canh tác. Người nông dân Hải Nam hầu như không có ruộng cày cấy, thường phải đi lĩnh canh của địa chủ với mức địa tô rất cao (một nửa số thu hoạch).

Ngoài ra người nông dân còn phải đến lễ, tết, ngày giỗ, phải biếu xén bọn địa chủ mới được nhận ruộng lĩnh canh để cày cấy. Không những thế, người nông dân Hải Nam còn phải nộp rất nhiều thứ thuế cho bọn thực dân phong kiến trong đó có thuế thân, thuế đánh vào đầu người là vô nhân đạo nhất! Mỗi suất đinh (nam giới từ 18 đến 60 tuổi) hàng năm phải nộp 2.5 đồng thuế thân. Bọn lý dịch còn phụ thu, lạm bổ mỗi suất đinh còn phải nộp 2.5 đồng (lúc đó thóc chỉ có 0.18 - 0.20 đồng/thùng). Hàng năm cứ đến tháng 5 thì tiếng trống thu thuế lại dồn dập vang lên bao phủ xóm, thôn một nỗi hoảng sợ, kinh hoàng….ai không có tiền nộp sưu thuế thì bọn cường hào, lý dịch đánh đập tịch thu tài sản. Trong những vụ sưu thuế như vậy bọn cường hào, lý dịch lại có cơ hội làm giàu do khoản phụ thu, lạm bổ. Chúng chè chén lu bù bên cạnh những tiếng kêu khóc, than vãn của những người thiếu thuế.

Ngoài cảnh đói cơm, rách áo người nông dân còn chịu cảnh thiên tai đe doạ, bão lụt, vỡ đê mất mùa, sâu bệnh gây nên tang tóc đau thương, chết người, mất tài sản không nơi cư trú. Cuộc sống của nông dân Hải Nam trước kia rất cơ cực, nhiều câu ca dao hò vè đã vẽ lên cuộc sống lầm than ấy như để truyền lại với hậu thế cho cháu con căm thù với bọn địa chủ phong kiến.

Cuộc sống ở quê hương lầm than đói rách, nhiều người đã phải bỏ nhà ra đi làm phu ở khắp mọi nơi. Trong thời gian ấy, cả xã có tới 292 người đã phải bỏ quê hương siêu bạt đi khắp nơi, nhiều người không còn tung tích. Có những người nông dân vì quá đói rách đã phải đi hành khất “sống nhờ hàng sứ, chết vùi đường quan”. Bên cạnh cuộc sống cơ  cực của người nông dân thì  trái lại là cảnh sống phè phỡn của giai cấp địa chủ phong kiến. Sự phân hoá giai cấp ở nông thôn ngày càng diễn ra sâu sắc, kẻ giầu càng giầu thêm, người nghèo càng thêm xơ xác.

Để duy trì chế độ bóc lột phong kiến, thực dân thống trị đã thiết lập một bộ máy chính quyền để bảo vệ quyền lợi cho bọn chúng. Từ khi lập xã, trong xã có tiên chỉ là người đầu giấy, rồi đến thứ chỉ, nhưng quyền thế nhất là lý trưởng, thứ nữa là phó lý.

Bên cạnh đó còn có hội đồng kỳ mục gồm những tên tổng lý đã từ dịch và những người khoa cử đỗ đạt như: tú tài, nhất, nhị trường, khoá sinh…

Mọi quyền hành chính nằm trong tay lý trưởng và phó lý giúp việc cho lý trưởng có xã tuần là kẻ đứng đầu tuần đinh để bọn chúng sai khiến, đánh đập tàn ác nhân dân. Tất cả bọn này đều cấu kết với nhau thành giai cấp thống trị. Công lý đều bị chà đạp, phải trái bất phân.

Ở Hội Khê ngoại có địa chủ gian ngoan, xảo quyệt độc ác là Lê Ngọc Lạc (thường gọi là Lý Lạc).

Ở thôn Trà Trung có địa chủ gian ngoan xảo quyệt, độc ác, nhân dân oán ghét là  Đoàn Mỹ Tuân (Cựu Toan). Có tên xã uỷ làm tay sai đắc lực cho giặc là Mai Đình Tuỵ

Bên cạnh việc bóc lột về kinh tế, bần cùng hoá nông dân, giai cấp địa chủ phong kiến thực dân đã thi hành chính sách ngu dân, đầu độc văn hoá, tư tưởng để chúng dễ bề cai trị. Dưới chế độ thực dân phong kiến nhân dân Hải Nam 95 % dân số mù chữ, lúc bấy giờ ở Tổng Kiên Trung chỉ có một trường học từ lớp 1 đến lớp 3. Thôn Hội Khê Ngoại có trường Hương Sư lớp vỡ lòng; Nhưng chỉ dành riêng cho con em Hương Lý kỳ hào của địa chủ. Lúc đó ở Hải Nam cứ 105 người dân có 1 người đi học. Cả xã chỉ có một số ít người là con em địa chủ mới chỉ được học từ lớp 4 đến lớp 7.

III. TỔ ĐẢNG HẢI NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN

Có áp bức là có đấu tranh, đó là chân lý. Người nông dân Hải Nam vốn cần cù, chất phác và rất mực yêu  thương song không cam chịu sự bóc lột, áp bức tàn bạo của  bọn phong kiến thực dân, họ đã dũng cảm vùng lên chống lại cường quyền, áp bức bóc lột. Trong cuộc sống tối tăm cùng cực như vậy nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra: Các vụ kiện cáo để quân cấp lại công điền ở Hội Nam, Hội Khê và Trà Trung, các phong trào đấu tranh chống thuế...Mặc dù các cuộc đấu tranh đó thất bại, nhưng nó đã chứng tỏ truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân Hải Nam.

Phong trào đấu tranh chống đế quốc, phong kiến của nhân dân Hải Nam bùng lên khá mạnh mẽ vào đầu năm của thế kỷ này, là miếng đất tốt để tư tưởng chủ nghĩa Mác-lê Nin, lý luận cách mạng của Đảng ra bén rễ.

1. Tổ chức cộng sản Hải Nam ra đời và lãnh đạo phong trào chống thuế (1929 - 1931)

Vào những năm 1925 -1926 phong trào yêu nước bùng lên sôi nổi ở Nam Định cũng như trong cả nước. Hai sự kiện có tiếng vang lớn là cuộc đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Phan Bội Châu và tổ chức lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Châu Trinh. Nhiều sách, báo, thơ ca được truyền bá về Hải Hậu. Những sự kiện trên có tác dụng khơi động tinh thần dân tộc trong quần chúng mà trước hết là trong một số thanh niên học sinh, trí thức yêu nước. Tình hình đó tạo điều kiện thuận lợi về tư tưởng cho những chuyển biến mới trong việc hình thành các tổ chức cách mạng ở địa phương.

Năm 1921, đồng chí Nguyễn ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) sau đó lập ra Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, chuẩn bị điều kiện thành lập Đảng cộng sản giữa năm 1927, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội phát triển ở Nam Định cũng như nhiều nơi khác và mùa thu năm đó Tỉnh bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội tỉnh Nam Định được thành lập để thống nhất lãnh đạo phong trào cách mạng trong toàn tỉnh.

ở Hải Hậu tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội cũng được hình thành tại 3 cơ sở trong đó có Hải Nam.

Trong thời gian đó, Nguyễn Trường Thuý là một nhà giáo cách mạng giữ vai trò chính trong việc gây cơ sở cách mạng ở Xuân Trường đã tuyên truyền cách mạng vào một gia đình ở Hội Khê ngoại vào năm 1928 đã kết nạp được 2 hội viên vào Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội.

Số hội viên Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội tuy còn ít ỏi nhưng đã tiến hành giáo dục tinh thần yêu nước và lòng căm thù đế quốc, phong kiến trong một số bà con thân cận.

Giữa năm 1929 sau khi hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho Đảng cộng sản ra đời, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội không đáp ứng được đòi hỏi của phong trào cách mạng, nhất là trong công nhân đã đi đến phân liệt. Tháng 6 năm 1929, Đông Dương cộng sản ra đời cũng trong tháng đó đảng bộ Đông Dương cộng sản Đảng tỉnh Nam Định do đồng chí Nguyễn Hới làm bí thư được thành lập trên cơ sở kết nạp các hội viên Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đã được giác ngộ và rèn luyện.

Ở Hội Khê ngoại được Đảng bộ huyện Xuân Trường trực tiếp lãnh đạo, phát triển trên cơ sở cách mạng không những trong xã mà còn mở rộng ra trong vùng. ở Hội Khê ngoại đã thành lập được một tổ Đảng gồm 3 đảng viên do đồng chí Lê Văn Mừu (tức Hoàng Kiên) làm tổ trưởng. Tổ đảng Hội Khê ngoại đã xây dựng được nông hội đỏ, một tổ chức quần chúng cách mạng của Đảng trong nông dân, thu hút hàng chục nông dân tham gia. Từ đây cơ sở cách mạng phát triển xuống Hà Lạn (Hải Phúc), Phúc Lộc (Hải Lộc), Phúc Thuỵ (Hải Hà).

Tổ Đảng ở Hội Khê ngoại được thành lập có ý nghĩa rất to lớn nó chứng tỏ nhân dân Hải Nam có truyền thống yêu nước và truyền thống đấu tranh cách mạng ngay từ những năm 1930. Hải Nam trở thành một trong cái nôi của phong trào cách mạng và là một trong ba cơ sở đầu tiên của huyện Hải Hậu. Đây là niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân Hải Nam nói riêng và Hải Hậu nói chung. Việc tổ Đảng Hội Khê ngoại thành lập đã trở thành hạt nhân lãnh đạo nhân dân tiến  hành các cuộc đấu tranh trong giai đoạn tới.

Ngày 03 tháng 2 năm 1930 Đảng cộng sản Đông Dương được thành lập, ngay sau đó Đảng đã lãnh đạo một phong trào đấu tranh mạnh mẽ, đều khắp trong cả nước mà đỉnh cao của phong trào là  phong trào nông dân Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Được sự cổ vũ của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và phong trào đấu tranh của giai cấp nông dân Nam Định, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Doãn Chấp (tỉnh uỷ viên Nam Định), tổ Đảng Hội Khê ngoại đã trực tiếp lãnh đạo nông dân Hải Nam nổi dậy phối hợp với nông dân Lạc Nghiệp (Xuân Trường cũ), Quất Lâm (Giao Thuỷ cũ) cùng một ngày biểu tình lên toà sứ Nam Định đòi giải quyết yêu sách cho nhân dân.

Sáng ngày 16 tháng 7 năm 1931, đoàn nông dân Hội Khê Ngoại gồm trên 100 người do tổ Đảng lãnh đạo (trong đó các hội viên nông hội đỏ làng Trung Kiên) tập họp đi qua chợ Trung Thành (nay thuộc xã Hải Vân) ra cống Kiên Trung. Vì bị một tên cường hào phản động đi báo với địch nên đoàn biểu tình vừa đi đến cống Kiên Trung thì bị mật thám và binh lính địch ngăn cản lại. Đoàn biểu tình đã đồng thanh đưa yêu sách đấu tranh với khẩu hiệu: "Chống thuế thân, giảm thuế tiền". Dưới sự lãnh đạo của tổ Đảng, trong đó có đồng chí Hoàng Kiên, đoàn biểu tình đã anh dũng đấu tranh chống lại tên quan một Pháp ở đồn Lạc Quần và tên Từ Bội Thực tri phủ huyện Xuân Trường và một số lính đòi chúng phải giải quyết các yêu sách trên. Thấy tình thế căng thẳng địch đã bắt đi 9 người trong đoàn biểu tình ( trong đó có 2 đảng viên). Căm phẫn trước hành động của địch, quần chúng đã xông đến định giữ ô tô, đánh tháo gỡ cho những người bị bắt nhưng không kịp.

Trước sức mạnh của quần chúng tên Lê Ngọc Am lý trưởng Hội Khê ngoại vô cùng hoảng sợ đã phải hứa cho nhân dân khất thuế. Địch giam giữ 9 người trong đoàn biểu tình ít lâu không khai thác được gì đành phải thả những người bị bắt. Đối với yêu sách của nông dân đấu tranh địch phải nhượng bộ giảm mỗi xuất đinh (thuế thân) là 0.2 đồng. Mặc dù cuộc biểu tình dừng lại ở đây vì thiếu sót là việc chuẩn bị chưa chu đáo, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba đoàn, đồng thời đối phó với địch còn bị động nhưng kết quả là địch đã phải nhượng bộ một vài yêu sách.

Cũng trong tháng 7 năm 1931, tổ Đảng Hội Khê ngoại còn tổ chức treo cờ Đảng ở cây gạo trước đền Hội Khê ngoại lần đầu tiên lá cờ đỏ búa liềm phấp phới tung bay giữa vùng quê hẻo lánh, nơi hang ổ kìm kẹp lâu đời của chế độ phong kiến, thực dân. Hình ảnh đó có tác dụng khơi động và cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân Hải Nam chống  đế quốc phong kiến. Cũng thời gian này, tổ Đảng còn xây dựng được nhiều tổ chức  trung kiên như nông hội đỏ, phụ nữ đỏ, hội tương đế v.v..

Những sự kiện trên đã chứng tỏ vai trò lãnh đạo của tổ Đảng ở  Hội Khê ngoại ngay từ khi mới thành lập đã gây tiếng vang lớn thức tỉnh nhân dân Hải Nam và các xã quanh vùng. Đây là lần đầu tiên Đảng đã huy động được đông đảo quần chúng xuống đường đấu tranh đòi quyền sống, hưởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và phong trào đấu tranh chống thuế của nông dân Tiền Hải (Thái Bình). Khẩu hiệu đấu tranh của cuộc biểu tình là rất phù hợp với nguyện vọng của nông dân, điều đó khẳng định sức mạnh của Đảng chỉ có khi nào phát động được quần chúng và đáp ứng được đòi hỏi bức thiết của nông dân.

Những sự kiện trên khẳng định, khi được Đảng giác ngộ và lãnh đạo, nhân dân lao động sẵn sàng nghe và làm theo Đảng, ta có đầy đủ sức mạnh để đấu tranh giành thắng lợi.

2. Thời kỳ khôi phục phong trào, chuẩn bị và tiến tới giành chính quyền (1936 -1945)

Sau cuộc đấu tranh chống thuế, cơ quan lãnh đạo Tỉnh uỷ bị phá vỡ, đồng chí Nguyễn Doãn Chấp tỉnh uỷ viên phụ trách nông thôn bị bắt các cơ sở Đảng ở Hải Hậu hoàn toàn mất liên lạc với trên...

ở Hải Nam, bọn mật thám và tay sai tăng cường theo dõi tổ chức Đảng ở đây. Tháng giêng năm 1932 địch về bắt hai anh em Lê Cao Hoản và Lê Cao Ruyện (trước là hội viên Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội) thì các tổ chức quần chúng kiên trung và tổ Đảng phải đi vào hoạt động bí mật.

 Năm 1930, theo chủ trương của tỉnh uỷ, tổ Đảng Hội Khê ngoại đã tách khỏi chi bộ Lạc Nghiệp (Xuân Trường cũ) để cùng với những đảng viên ở Hà Lạn, Quất Lâm thành một chi bộ (1) do đồng chí Lê Văn Mừu (tức Hoàng Kiên) làm bí thư. Ngay sau đó chi bộ đã quyết định bí mật vận động nông dân đòi quân cấp rộng công và đã thu được thắng lợi. Kết quả là, nam giới từ 18 tuổi trở lên được cấp 5 sào ruộng trong đó có 2 sào ruộng gần và tốt.

Năm 1936, tình hình thế giới và trong nước có những biến chuyển lớn.Mặt trận nhân dân Pháp, nòng cốt là Đảng cộng sản lên cầm quyền thi hành một số quyền tự do dân chủ cho cả các nước thuộc địa.  Bọn Pháp ở Đông Dương buộc phải thả hầu hết các chính trị phạm. Căn cứ vào tình hình mới, Đảng ta chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tạm thời gác khẩu hiệu "Đánh đổ thực dân Pháp" nói chung và rút khẩu hiệu "Người cày có ruộng" thành mặt trận dân chủ tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chủ nghĩa Phát xít, bọn phản động thuộc địa giành lại một số quyền dân chủ cho quần chúng. Lợi dụng tình hình lúc đó, Đảng ta đã  thực hiện nhiều hình thức hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp để đưa cách mạng lên cao trào mới.

Trong điều kiện thuận lợi ấy, một số đảng viên và quần chúng cách mạng ở Hội Khê ngoại đã hoạt động trở lại, bắt liên lạc với cơ quan lãnh đạo tỉnh, các đảng viên đã đẩy mạnh hoạt động của hội tương đế, vận động nhân dân mua và đọc sách báo của Đảng, lấy chữ ký vào các bản dân nguyện đòi cải thiện đời sống, đồng thời chi bộ còn tổ chức những lớp truyền bá quốc ngữ cho quần chúng. Thời gian này, cơ sở Đảng ở huyện Xuân Trường được phục hồi 20 đảng viên trong đó thôn Hội Khê ngoại có đồng chí Hoàng Kiên và kết nạp thêm được ba đồng chí nữa.

Những thời gian tiếp theo do sự khủng bố của thực dân Pháp, cơ sở Đảng ở Hội Khê ngoại sự hoạt động dần dần bị giảm sút, một số đảng viên bị địch bắt (đồng chí Hoàng Kiên bị địch bắt đi, bắt lại, mãi đến cách mạng thành công mới ra khỏi nhà tù) cho nên phong trào cách mạng Hải Hậu nói chung và Hải Nam nói riêng tạm thời bị lắng xuống, nhưng tinh thần cách mạng của những đảng viên và quần chúng vẫn được nuôi dưỡng chờ thời cơ là vùng lên tiêu diệt quân thù.

Nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Hải Nam nói riêng dưới ách thống trị của Nhật- Pháp đã điêu đứng lại càng điêu đứng hơn. Hậu quả 80 năm đô hộ của thực dân Pháp và mấy năm đô hộ của Nhật - Pháp là nạn chết đói đã xảy ra ở Bắc Bộ và Bắc Trung bộ cuối năm 1944 đầu năm 1945. Nạn đói này đã cướp đi 2 triệu đồng bào ta.ở Hải Nam, nạn đói năm đó đã cướp đi 1.290 người của 425 gia đình trong đó có 98

gia đình hầu như chết hết, như gia đình ông Thấu Trà Hải Trung 14 người, gia đình ông Nhiếp (Hội Khê) 14 người, gia đình ông Định Hội Nam 15 người chết không còn một ai.

Tình hình đó đã đẩy nhân dân ra đến chỗ không thể sống như cũ được nữa.

Thời cơ cách mạng trong toàn quốc đã dần dần đi đến chín muồi. Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp. Ngay sau đó ban thường vụ trung ương Đảng ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Bản chỉ thị đó đã kịp thời hướng dẫn hành động cho các tổ chức Đảng và đảng viên hành động trước tình hình mới.

Tháng 5 năm 1945 ban cán sự Đảng tỉnh Nam Định đã họp hội nghị ở Quần Liêu (Nghĩa Hưng) để bàn việc vận dụng chỉ thị "Nhật - Pháp đánh nhau và hành động của chúng ta" và địa phương. Hội nghị đã đề ra phục hồi và phát triển cơ sở Việt Minh, đẩy mạnh mọi hình thức tuyên truyền (kể cả việc thành lập đội tuyên truyền vũ trang của tỉnh), hô hào nhân dân đứng dậy đánh đổ tay sai, đánh Nhật chuẩn bị giành chính quyền.

Sau hội nghị Quần Liêu, phong trào cách mạng ở Hải Hậu được ban cán sự tỉnh trực tiếp chỉ đạo, đã phát triển rất nhanh chóng, cơ sở Việt Minh đã được xây dựng ở Hội Khê Ngoại và một số nơi khác, lôi kéo các tầng lớp nhân dân tán thành đánh Pháp, đuổi Nhật. Khí thế chuẩn bị khởi nghĩa ở Hải nam cũng như trong toàn quốc rất sôi nổi

Tháng 6 năm 1945 Tỉnh bộ Việt Minh cử đồng chí Khang về bắt liên lạc và xây dựng lực lượng trung kiên ở Hội Khê ngoại, đã thu hút được 20 người tham gia và do đồng chí Lê Cao Thành phụ trách.

Hoà chung với khí thế của cả nước, ngày 23 tháng 8 năm 1945 nhân dân Hội Khê ngoại đã kết hợp nhân dân thôn Lạc Nghiệp kéo lên cướp phủ Xuân Trường và đồn Lạc Quần thắng lợi. Lực lượng thanh niên Hải Nam cũng tham gia cướp chính quyền huyện Hải Hậu vào ngày 21 tháng 8 năm1945. Ngay sau khi lật đổ chính quyền của địch được Mặt trận Việt Minh huyện lãnh đạo nhân dân ba thôn đã tổ chức mít tinh lớn đồng loạt tại các địa điểm: Chùa Hội Khê,đền Hội Nam và chùa Trà Hải Trung để thành lập Uỷ ban nhân dân lâm thời ở Trà Hải Trung, Hội Khê ngoại, Hội Khê Nam

Do sự chuẩn bị tương đối chu đáo từ trước, nhất là thời kỳ xây dựng phát triển Mặt trận Việt Minh cho nên thời gian cướp chính quyền địch diễn ra nhanh chóng sôi nổi và rầm rộ.

Trong quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng Đảng và chuẩn bị giành chính quyền (1930-1945) nhân dân Hải Nam tỏ rõ tinh thần yêu nước và khả năng cách mạng của mình. Dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, nhân dân Hải Nam đã nổi dậy nhiều lần, với nhiều hình thức khác nhau chống chế độ thực dân phong kiến. Và cuối cùng đã cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Hải Nam đã giành chính quyền về tay mình. Từ đây nhân dân Hải Nam bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh giữ vững, củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược.

 

CHƯƠNG II
CHI BỘ HẢI NAM LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)

I. XÂY DỰNG CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN, CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNG KHÁNG CHIẾN   (9/1945 – 10/1949)

Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời đã phải đương đầu với mọi khó khăn trở ngại. Nạn đói khủng khiếp chưa chấm dứt, thì nạn lụt lớn ở Bắc Bộ lại ập đến, mọi ngành sản xuất đình đốn, hàng hóa khan hiếm. Giữa lúc ấy 20 vạn quân Tưởng, mấy vạn quân Anh - Pháp xúm lại định tiêu diệt chính quyền cách mạng. Trong tình hình ấy ngày 03 tháng 9 năm 1945 Hồ Chủ tịch thay mặt Trung ương Đảng nêu ra 6 nhiệm vụ cần kíp trước mắt để củng cố chính quyền cách mạng vừa mới giành được. 6 nhiệm vụ đó là: Chống đói, chống dốt, tổng tuyển cử, xây dựng nếp sống mới, xóa bỏ các thứ thuế vô lý, tín ngưỡng tự do. Ngày 25 tháng 11 năm 1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến - kiến quốc". Để thực hiện những chỉ thị cần kíp ấy, nhân dân Hải Nam cùng với nhân dân Hải Hậu và nhân dân cả nước đã đoàn kết chặt chẽ, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn trở ngại.

Việc đầu tiên nhân dân Hải Nam phải làm là xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng. Ngay sau ngày 21 tháng 8 năm 1945, Uỷ ban lâm thời các thôn Trà Hải Trung, Hội Khê, Hội Nam được thành lập. Thành phần trong uỷ ban gồm những người đã có công trong cuộc vận động cách mạng ở xã, những người trung thành với nhân dân, song bước đầu thành lập chính quyền, chúng ta còn có những thiếu sót: Đã để một số địa chủ, cường hào tham gia cho nên sau này khi thực hiện những chỉ thị của Đảng và nhà nước chúng tìm cách phá hoại. Cách mạng tháng 8 /1945 thành công; từ đây nhân dân tư thực sự làm chủ cuộc đời mình. Ngay sau ngày việt minh giành chính quyền; các làng , xã cũng được thiết lập chính quyền cách mạng. Uỷ ban lâm thời xã Hải Nam ra đời vào ngày 23 /8/ 1945. Việc đầu tiên nhân dân Hải Nam làm là xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng. Để tăng cường khối đoàn kết toàn dân của chính quyền cách mạng, dân chủ nhân dân đảng chủ trương mở rộng thành phần uỷ ban cách mạng lâm thời có mời một số nhân sỹ, trí thức tiến bộ tham gia  trên nguyên tắc vẫn đảm bảo quyền lãnh đạo của đảng. sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nói chung trong thành phần chính quyền cách mạng là những người có công trong  cuộc vận động cách mạng ở xã, là những người trung thành với nhân dân. Nhưng vì ngày đầu quan điểm giai cấp chưa rõ rệt nên chính quyền đã đưa cả cường hào và địa chủ vào các tổ chức này. tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và củng cố, những thiếu sót dần dần bộc lộ và được khắc phục. Trong tình thế hết sức gay go và phức tạp “ngàn cân treo sợi tóc”, cuộc đấu tranh một mất một còn giữa ra và địch Đảng ta rút vào hoạt động bí mật để đảm bảo an toàn sự lãnh đạo đối với đất nước. Lúc này, Đảng ra lấy mặt trận việt minh làm nòng cốt (sau này là Uỷ ban liên Việt). Chính quyền ban đầu của xã Hải Nam lúc đó Chủ nhiệm Việt minh xã: ông Nguyễn Bá Ấm; Chủ tịch Uỷ ban lâm thời của Trà Trung là ông Đoàn Phúc Chiều; Chủ tịch uỷ ban lâm thời của Hội Nam là ông Trần Đức Thiêm; Chủ tịch uỷ ban lâm thời của Hội Khê Ngoại là ông Lê Hồng Ky; Hội Khê Ngoại ông Lê Quốc Tuý là Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến xã Xuân Hoà từ năm 1949 -1953 “[1]”;Ông Lê Quốc Tuý giữ chức vụ phó Chủ tịch. Đồng chí Đỗ Duy Nhiễu Bí thư chi bộ từ năm 1951 -1953 “[2]”. Các đoàn thể cũng được tổ chức và hình thành: Đoàn thanh niên cứu quốc ông Phạm Văn Phương; Hội Nông hội cứu quốc ông Mai Văn Liết (xóm 4) “[3]”; Hội phụ nữ cứu quốc bà Đoàn Thị Cảng; Nhi đồng cứu vong ông Nguyễn Bá Triển (tức Quang Ngọc); Xã đội trưởng ông Đoàn Tư Dung. Sau khi chính quyền cách mạng được thành lập các tổ chức quần chúng hình thành như: mặt trận Việt Minh xã, Thanh niên cứu quốc và Nhi đồng cứu vong...Lúc này Đảng ta chưa công khai lãnh đạo mà mặt trận Việt Minh (sau này là uỷ ban Liên Việt) lãnh đạo. Hoạt động của các đoàn thể cứu quốc lúc này rất sôi nổi. Thanh niên nô nức học võ, tham gia tập quân sự và hăng hái học bình dân học vụ, nhiều lớp bình dân học vụ đoàn thanh niên đã cử người biết dạy chữ dạy người không biết chữ. Đặc biệt, lực lượng thanh niên lúc này thực sự đi đầu trong phong trào bài trừ hủ tục, cờ bạc, mê tín dị đoan và vận động thực hiện đời sống mới. Để khắc phục hậu quả của nạn đói năm 1945, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch "Tấc đất, tấc vàng", "Tăng gia sản xuất; tăng gia sản xuất ngay; tăng gia sản xuất nữa" coi đó là biện pháp tốt nhất để chống đói, vượt qua nạn đói, ổn định đời sống, là cách thiết thực để giữ quyền tự do, độc lập của dân tộc. Để có lương thực, thực phẩm, áo ấm nuôi quân đánh giặc từ năm 1949 trở đi trên địa bàn Hải Nam đã dấy lên nhiều phong trào yêu nước rất thiết thực như “hũ gạo tiết kiệm”, “đảm phục  quốc phòng”, “mua công trái kháng chiến”, “quà gửi tiền phương”. Năm 1590 -1952 xã ta đã có 660 gia đình tham gia phong trào “hũ gạo tiết kiệm” để lấy gạo nuôi quân. Phong trào này là bước tiếp phát triển cao trào đó là “hũ gạo kháng chiến năm xưa”, góp phần hình thành và phát triển truyền thống tiết kiệm vì mục đích ích nước lợi nhà. Cứ mỗi ngày đến bữa nấu cơm, người làm bếp lấy một nắm gạo bỏ vào hũ gạo kháng chiến của nhà mình; sau nửa tháng lấy gạo trong hũ ra ít nhất cũng được từ 1 - 2 kg; hũ nhiều có thể từ 2 -3 kg. cứ mỗi kỳ như vậy thôn nào cũng được từ 30 -50 kg đem nộp cho Ban Chỉ huy quân sự xã để nuôi cán bộ bí mật hoạt động tập trung và bộ đội địa phương. Trong năm 1950 nhân dân Hải Nam còn mua công trái đợt 1 và đợt 2 số tiền là 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng); số tiền này đã được gửi ra vùng tự do để nuôi quân đánh giặc. Nông hội cứu quốc đã phát động phong trào tăng gia sản xuất sôi nổi khai phá ruộng hoang hóa để cày cấy và tận dụng đất đai trồng  rau màu...Một phong trào quần chúng làm theo lời Bác "Cứ 10 ngày bớt ăn một bữa, mỗi tháng bớt ăn ba lần", đem số gạo đó cứu đói dân nghèo được phát triển rộng rãi. Mặt trận Việt Minh tổ chức các đoàn đi quyên góp lương thực giúp đỡ người nghèo.

Bên cạnh tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau, lại được nhà nước hỗ trợ như: giảm thuế, miễn thuế cho vùng bị thiên tai vỡ đê, úng lụt, mất mùa, tịch thu ruộng đất việt gian, phản động và ruộng công điền do bọn kỳ hào chiếm đoạt chia cho dân nghèo. Nhờ đó, mà chỉ trong một thời gian ngắn nạn đói đã được đẩy lùi đời sống nhân dân dần dần ổn định. Trên cơ sở đó sản xuất phát triển, quần chúng lao động tin yêu, gắn bó với chế độ mới và hăng hái đóng góp sức người, sức của cho công cuộc "kháng chiến - kiến quốc". Mặt trận Việt Minh (Dưới sự lãnh đạo của Đảng) đặc biệt chú ý xây dựng tổ chức bảo vệ Tổ quốc (tổ chức bán vũ trang của quần chúng) tổ chức này ở Hải Nam được thành lập ngay sau khi có chính quyền, lực lượng này được các đoàn thể cứu quốc lựa chọn những người hăng hái, tích cực nhất trong đoàn thể mình đưa vào tổ chức bảo vệ lúc này mỗi xã (làng, xã cũ) có một đội bảo vệ do một uỷ viên quân sự của uỷ ban lâm thời phụ trách. Đội gồm 36 đội viên (sau đổi thành Trung đội bảo vệ) được trang bị bằng vũ khí thô sơ như mã tấu, búp đa, lựu đạn, gậy tầm vông v.v... Đơn vị này được tập trung huấn luyện quân sự: Tập đi theo đội ngũ, đâm búp đa bùi nhùi rơm, ném lựu đạn, đánh trận giả v.v... Xã đã cử một số cán bộ đoàn thể đi dự lớp quân chính do huyện mở nhằm để đào tạo sau này, nhiệm vụ chính của lực lượng bảo vệ là canh gác, bảo vệ trật tự trị an xóm làng, bảo vệ chính quyền lâm thời.

Các ban ngành trong xã cũng được thành lập như: thông tin tuyên truyền, bình dân học vụ v.v...Phong trào văn nghệ được phát triển thôn xóm rộn ràng lời ca tiếng hát làm sôi động xóm thôn. Các ngày kỷ niệm của cả nước như Cách mạng tháng 8, ngày 02 - 9, 01-5 ...các đoàn thể và nhân dân đi dự các cuộc mít tinh biểu tình đông như ngày hội, thanh niên thiếu nhi có những tiết mục tự biên, tự diễn phục vụ các ngày lễ lớn liên tiếp tổ chức được quần chúng nhiệt tình cổ vũ. Đặc biệt, xã đã tổ chức mời đội tuyên truyền xung phong của huyện về biểu diễn, bán vé thu tiền ủng hộ công quỹ kháng chiến được nhân dân nhiệt tình hửng ứng. Tiếng loa phát thanh tin tức hàng ngày từ trên chòi cao phát ra tiếng nói của Đảng và Chính phủ tới nhân dân rất kịp thời.Dưới thời pháp thuộc hơn 95% nhân dân Hải Nam mù chữ, vì vậy diệt giặc dốt, mở mang dân trí cũng đang cần đòi hỏi giải quyết. từ người lãnh đạo cao nhất của xã đến người dân bình thường ở Hải Nam cũng nhận thức điều này.

Về mặt tổ chức: Ban bình dân học vụ xã được thành lập do đồng chí Đoàn Thọ Hiển làm trưởng ban và một số uỷ viên giúp việc. Ban này kết hợp với Ban Thông tin văn hóa, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên… đồng loạt ra quân sôi nổi rầm rộ, dấy lên không khí học tập khắp thôn cùng ngõ hẻm. thực hiện phương châm người biết ít dạy người chưa biết;  có hàng chục lớp xoá mù được tổ chức gọi là bình dân học vụ được mở ra. Mỗi thôn có ít nhất từ 2 -3 lớp, cũng có thôn có tới 4 -5 lớp, mỗi lớp thu hút từ 20 -30 người học. Lớp học thường được mở nhờ các từ đường, các dòng họ hoặc những gia đình có điều kiện.  Bảng học, bàn học, có thể là những cánh cửa gỗ được dựng lên, ngả ra, còn ghế ngồi thì tuỳ do học viên tự tạo có thể chiếc quạt mo, khúc gỗ đều có thể biến thành ghế ngồi. Hình thức học thì đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, lúc đầu học các chữ cái, sau ghép chữ cái lại với nhau thành những vẫn đơn giản; bước thứ ba là ghép vào thành công, thành từ có nghĩa; những bài học thường ngắn gọn, xúc tích, dễ nhớ, dễ thuộc. Song song với việc học văn hóa, phong trào xây dựng nếp sống mới như bài trừ những hủ tục do thực dân phong kiến đặt ra, xóa bỏ nạn cờ bạc, nghiện hút, nghiêm cấm việc hành nghề mê tín dị đoan, bói toán nhảm nhí. thực hiện ăn ở có vệ sinh; quét dọn đường dong, ngõ xóm sạch sẽ, phong quang để phong các dịch bệnh…được nhân dân đồng tình hưởng ứng ủng hộ. Những thuần phong mỹ tục và truyền thống tốt đẹp được khuyến khích duy trì và phát triển.

Cuối năm 1945 một sự kiện lớn đến với nhân dân xã Hải Nam. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Trung ương Đảng và Chính phủ "Hy sinh hết thảy vì kháng chiến, hy sinh hết thảy vì mặt trận Miền Nam". Sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, các cuộc mít tinh, biểu tình phản đối thực dân Pháp xâm lược với những khẩu hiệu "Đả đảo thực dân Pháp xâm lược" "Nước Việt Nam của người Việt Nam","ủng hộ Nam Bộ kháng chiến"," triệt để ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh","Việt Nam độc lập muôn năm"...được hô vang từ địa điểm mít tinh về khắp thôn xóm. Đầu năm 1946, một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước đã đến, ngày 06 tháng giêng năm 1946, ngày tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cùng với toàn quốc, nhân dân xã Hải Nam từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ lần đầu tiên được hưởng quyền phổ thông đầu phiếu, đã nô nức đi bầu cơ quan quyền lực cao nhất của cả nước. Thực hiện chủ trương chuẩn bị kháng chiến của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, nhân dân Hải Nam cũng như nhân dân trong tỉnh đã có những đóng góp thiết thực.

Thành lập uỷ ban kháng chiến hành chính xã, huy động nhân dân tham gia tiêu thổ kháng chiến tại thị xã Nam Định, tham gia phá hoại đường giao thông đắp ụ cản xe cơ giới của địch...Thành lập xã đội quân thống nhất chỉ huy lực lượng dân quân toàn xã tổ chức bảo vệ trước đây lực lượng dân quân lúc này đã được thành lập đến tận xóm, gọi là ấp đội dân quân toàn xã có một trung đội thường trực, lực lượng thường trực này của xã đã được huyện đội quyết định điều đi tham gia dập tắt vụ bạo loạn Xuân Hà, Tăng Điền tháng 7 năm 1947, về huấn luyện xã đã phát động phong trào "Luyện quân lập công" nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật đáp ứng nhiệm vụ quân sự của giai đoạn kháng chiến đã chuyển sang thời kỳ mới. Phong trào sản xuất, tự cấp, tự túc, trồng lúa, hoa màu và chăn nuôi được đẩy mạnh, xã tổ chức vận động nhân dân góp từ 2 đến 5 cân thóc đóng vào "Qũy độc lập", "Quỹ thóc gạo khao quân của Hồ Chủ tịch" nhằm góp phần nuôi quân làm cho cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi.

 Trong khi nhân dân Hải Nam hăng say tích cực xây dựng củng cố cuộc sống mới thì ngày 19 tháng 12 năm 1946 kháng chiến toàn quốc đã bùng nổ. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, tháng 2 năm 1947 tỉnh uỷ Nam Định quyết định thành lập ban huyện uỷ Hải Hậu thay cho ban cán sự Đảng trước đây, huyện uỷ Hải Hậu đã tiến hành thành lập các chi bộ xã trong toàn huyện. Căn cứ vào tình hình tổ chức Đảng ở Hải Nam đã có bước trưởng thành và để đáp ứng với tình hình mới, Huyện uỷ Hải Hậu đã ra nghị quyết thành lập chi bộ xã Hải Nam. Đêm ngày 07 tháng 7 năm 1947 chi bộ Đảng xã Hải Nam được thành lập, chi bộ Hải Nam lúc đầu có 3 đồng chí do đồng chí Phạm Hữu Lương làm bí thư, sau đó phát triển thêm 3 đảng viên mới. Chi bộ Hải Nam được thành lập, đánh dấu một cái mốc mới quan trọng trong quá trình đấu tranh cách mạng của xã nhà. Từ đây nhân dân Hải Nam đã có một chi bộ Đảng cộng sản lãnh đạo nhân dân toàn xã tiến hành những nhiệm vụ cách mạng mới.

Ngay sau khi thành lập,chi bộ đã ra nghị quyết cho công tác trước mắt: Cấp lại ruộng công do địa chủ, cường hào chiếm đoạt chia cho nhân dân từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam nữ. Củng cố các đoàn thể, phát triển mặt trận Việt Minh, đưa những người có năng lực vào ban chấp hành. Chuẩn bị tổ chức bầu Hội đồng nhân dân xã và thành lập Ủy ban hành chính xã. Củng cố và phát triển lực lượng vũ trang toàn xã, phát triển văn hóa xã hội. Những nghị quyết của chi bộ lúc đó đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, mặt trận Việt Minh đã được thống nhất trong toàn xã, các lực lượng vũ trang được chấn chỉnh. Việc đem lại ruộng đất cho nông dân là cuộc đấu tranh giai cấp rất gay go quyết liệt ở Hải Nam. Bọn địa chủ cường hào tìm mọi cách phá hoại, nhưng dưới sự lãnh đạo của chi bộ xã Hải Nam đã thực hiện thắng lợi việc chia công điền, công thổ cho nhân dân. Điều này đã đưa lại cho người nông dân trong các thôn xóm Hải Nam một khí thế mới, người nông dân Hải Nam từ bao đời không có "tấc đất cắm dùi", ngày nay ruộng đất phần lớn đã thuộc về mình.

Trong quá trình đấu tranh cách mạng, trình độ chính trị của nhân dân cũng dần được nâng lên, chính quyền của nhân dân ngày càng được củng cố, tháng 8 năm 1947 nhân dân Hải Nam đã nô nức đi bầu Hội đồng nhân dân xã. Kết quả của cuộc bầu cử là 19 người đã thay mặt các tầng lớp nhân dân và cơ quan quyền lực ở địa phương.Uỷ ban hành chính xã đã được thành lập. Đây là lần đầu tiên nhân dân xã Hải Nam thực hiện quyền dân chủ ở địa phương, trực tiếp bầu những người thay mặt mình ở địa phương. Đây là nguồn sức mạnh do công cuộc ổn định đời sống nhân dân, chuẩn bị lực lượng kháng chiến. Song song với việc củng cố chính quyền cách mạng ổn định đời sống nhân dân, chi bộ Hải Nam lãnh đạo nâng cao trình độ văn hóa nhân dân mỗi thôn ở Hải Nam đã xây dựng được một trường cấp một, mỗi thôn đều có các lớp bình dân học vụ để đóng góp thanh toán nạn mù chữ cho nhân dân, đã lãnh đạo xóm bỏ các tệ nạn xã hội, thực hiện đời sống văn minh tiến bộ, cũng trong thời gian đó, đường xã được mở mang, các công trình công cộng được xây dựng. Thôn xóm Hải Nam những năm sau Cách mạng tháng 8 bừng bừng sôi nổi người nông dân lao động đã đứng dậy làm chủ cuộc đời mình, thôn xóm yên lành, bộ mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đã hoàn toàn thay đổi, đây là cuộc đời thực sự, chỉ có cách mạng mới đem lại cho người nông dân Hải Nam những hạnh phúc ấy. Những thay đổi ở nông thôn Hải Nam sau cách mạng là những thay đổi căn bản, có ý nghĩa vô cùng lớn lao: Những thay đổi ấy gắn liền với sự lãnh đạo của chi bộ Đảng Hải Nam. Chi bộ Hải Nam tuy số lượng đảng viên ít nhưng thực sự là hạt nhân lãnh đạo quần chúng thực hiện những chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Trong quá trình cách mạng chi bộ Hải Nam cũng ngày càng được củng cố và phát triển, tháng 7 năm 1947 Hải Nam mới chỉ có một chi bộ với 6 đảng viên thì đến tháng 10 năm 1949 Hải Nam đã có 50 đảng viên, trong thời gian 1947-1949 chi bộ Hải Nam đã lãnh đạo nhân dân, xây dựng củng cố chính quyền, ổn định và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng lực lượng chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.                                                                      

II. CHI BỘ HẢI NAM LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẤU TRANH VỚI ĐỊCH GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN PHÁ MỌI ÂM MƯU BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH, GÓP PHẦN GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG (10 / 1949 - 7 / 1954)

Trong khi Hải Nam nói riêng và Hải Hậu nói chung còn là vùng tự do thì tình hình trong nước đã có nhiều thay đổi. Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Nhân dân ta với tinh thần "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" đã đứng dậy tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ anh dũng và bước đầu thu được những thắng lợi hết sức oanh liệt.Trong thời gian cuộc kháng chiến chưa trực tiếp lan đến, nhân dân Hải Nam đã chuẩn bị sẵn sàng, tập luyện quân sự, chuẩn bị lực lượng quyết tâm chiến thắng kẻ thù

Trong thời gian này, nhân dân Hải Nam có một niềm tự hào là đã góp một phần xứng đáng vào việc bảo vệ cơ quan đầu não của tỉnh: uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Nam Định, ty công an tỉnh Nam Định và đặc biệt đã bảo vệ cơ quan toà soạn báo nhân dân của đảng, làng Hội Khê Nam, Hội Khê Ngoại và Trà Hải Trung trước khi địch đánh chiếm các huyện Xuân Trường, Giao Thuỷ và Hải Hậu.

Sau thất bại Việt Bắc, thực dân Pháp đã dốc sức bình định Bắc Bộ, chúng coi Bắc Bộ là chiến trường chính, chiếm rộng đồng bằng, củng cố biên giới. Với kế hoạch Rơ-Ve, thực dân Pháp đã mở nhiều cuộc hành quân đánh chiếm vùng đồng bằng giàu của, giàu người.

Trung tuần tháng10 năm 1949, địch mở cuộc hành quân Ăng-tờ-ra-xít-tờ đánh chiếm 6 huyện miền nam tỉnh Nam Định,trong đó có Hải Hậu. Ngày 5 tháng 11 năm 1949 , sau hơn 2 tuần đánh chiếm Xuân Trường, Giao Thuỷ, quân Pháp từ Xuân Trường đánh sang Trung Thành (Hải Vân), lấy đó làm bàn đạp đánh vào Hải Hậu. Từ đây Hải Hậu nói chung và nhân dân Hải Nam nói riêng thực sự bước vào cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ và anh dũng. Sau nhiều lần đánh chiếm Hải Hậu, tuy lực lượng địch nhiều hơn ta gấp bội, song địch đã vấp phải những thất bại nặng nề, do lực lượng quá chênh lệch, cuối cùng địch vẫn chiếm được Hải Hậu, trong đó có Hải Nam. Đánh chiếm được Hải Hậu, thực dân Pháp đã thiết lập một hệ thống đồn bốt dày đặc ở toàn huyện, chúng xây dựng 42 bốt bảo chính, 135 bốt tề, dõng. Nhiều nhà thờ trở thành vị trí quân sự của giặc. Riêng Hải Nam ở  vào thế bị kìm kẹp của hai vị trí Trung Thành trên đường 21 và Thức hóa trên đường 51. Đồng thời bọn Pháp đã dựa vào thế lực phong kiến dựng lên một chính quyền phản động, đội lốt tôn giáo làm nhiệm vụ bình định nhân dân và chống lại cuộc kháng chiến do đảng ta lãnh đạo. Từ tháng 11 năm 1949, Hải Nam là một trong các xã của huyện Hải Hậu bị địch chiếm đóng. Bọn địa chủ cường hào ở các thôn xin lập tề làm tay sai cho địch.

Thi hành chủ trương của Huyện uỷ, Uỷ ban hành chính kháng chiến huyện Hải Hậu, chi bộ Hải Nam đã chủ trương: Đối với những cán bộ chủ chốt của Đảng, chính quyền đã bị lộ, tạm thời rút vào hoạt động bí mật; Tiếp tục ổn định tư tưởng cho quần chúng và củng cố tổ chức; Củng cố lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, thiết phục tề, nắm tề và tiến tới phá tề, trừ gian; Một bộ phận Đảng viên tạm thời chuyển ra vùng tự do ở Thái Bình để học tập chủ trương mới. Những chủ trương của chi bộ đã được thực hiện và đạt kết quả đáng kể. Bọn tề thôn Trà Hải Trung đã bị ta bắt đưa đi giáo dục và cải tạo tại Thái Bình. Một số  cán bộ chủ chốt tạm thời ra vùng tự do (xã Quang Thẩm, Thái Bình) để học tập chủ trương mới. Đa số đảng viên và một số ít cấp uỷ ở lại hoạt động hợp pháp làm nhiệm vụ ổn định tư tưởng cho quần chúng, giữ vững tinh thần cho đảng viên, duy trì phong trào chờ chủ trương mới.

Sau khi chiếm được Hải Hậu, ở Hải Nam bọn phản động ở địa phương tăng cường củng cố và phát triển bộ máy nguỵ quyền, nguỵ quân để thực hiện âm mưu bình định của địch. Ở các thôn đồng bào phật giáo bọn chúng củng cố tổ chức hội tề, còn các thôn xóm đồng bào thiên chúa giáo chúng đã tập trung ở các trung đội "Tự vệ công giáo" làm nhiệm vụ canh gác đồn bốt, bắt bớ cán bộ, du kích và kìm kẹp nhân dân. Các ban chỉ huy tự vệ công giáo phần lớn do các tu sỹ phản động nắm giữ, thực chất đây là một tổ chức nguỵ quyền kiêm chỉ huy nguỵ quân. Ở Hải Nam bọn phản động biết nơi đây có tổ chức cộng sản từ rất sớm nên chúng ra sức càn quét, bắt bớ cán bộ, du kích tra tấn rất dã man hòng tiêu diệt tận gốc cơ sở kháng chiến, xóa bỏ ảnh hưởng của cách mạng. Bọn phản động tước bỏ mọi thành quả của kinh tế, xã hội cách mạng đã đem lại.  Chúng thu lại công điền của phụ nữ, bắt nông dân phải hoàn lại cho địa chủ số tô đã giảm thu lại các thứ thuế và bị cách mạng xoá bỏ, tịch thu ruộng đất của du kích cán bộ...Về xã hội chúng phục hồi nhiều tệ nạn và hủ tục cũ. Từ đó bắt đầu một thời kỳ đau thương và uất hận, mà nhân dân thường gọi là thời kỳ "2 năm 4 tháng"  .

Thực hiện chủ trương của huyện uỷ Hải Hậu, lúc này ở Hải Nam huyện uỷ cử cán bộ về bắt liên lạc với các đồng chí chi uỷ còn lại, tiến hành củng cố lại ban chi uỷ, bắt liên lạc với đảng  viên, truyền đạt chủ trương mới. Chi bộ đã chủ trương và đề ra những công việc cấp bách phải làm.

- Giữ vững tinh thần cho đảng viên, ổn định tư tưởng cho quần chúng.

- Xây dựng bảo vệ cơ sở cán bộ, phục hồi các tổ chức quần chúng.

- Xây dựng lực lượng bán vũ trang, củng cố chính quyền xã, tổ chức phòng gian bảo mật, xây dựng giao thông liên lạc từ xã lên miền tới huyện.

- Thuyết phục và nắm tề, tiến tới phá tề, trừ gian xây dựng chính quyền cách mạng, bảo vệ cơ sở, giữ vững phong trào.

Thực hiện những chủ trương trên thực sự là một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch: Công việc đầu tiên cấp bách là thuyết phục nắm tề thôn Hội Khê Nam, bắt chúng làm giấy cam đoan tuôn theo chính quyền cách mạng, không được làm điều gì có hại cho cách mạng, cho nhân dân. Do nắm được tề thôn Hội Khê Nam trở thành bàn đạp phát tề, trừ gian thôn Trà Hải Trung sau này, và xã Hải Nam không những xây dựng được căn cứ của cán bộ xã mở rộng địa bàn hoạt động nối liền với Hội Khê Ngoại và Trà Hải Trung mà còn là căn cứ của huyện Hải Hậu và các huyện bạn, rồi đến việc xây dựng lực lượng du kích làm cơ sở cho việc phá tề trừ gian thôn Trà Hải Trung.

Tề vũ trang thôn Trà Hải Trung thuộc loại tề ác, lực lượng vũ trang có một tiểu đội gồm cựu binh sỹ thời Pháp có cả cai đội cũ và đảng phái  phản động, một tiểu đội bảo an được trang bị 10 súng trường Mỹ còn lại là mã tấu. Bọn chúng đã gây nhiều tội ác với nhân dân, căm phẫn trước hành động của chúng đến ngày 03 tháng 6 năm 1950 chi bộ đã lãnh đạo du kích phối hợp với bộ đội địa phương, công an huyện đột nhập vào nhà tên Mai Đình Tụy xã trưởng thôn Trà Hải Trung cướp 6 khẩu súng trường Mỹ và thu toàn bộ sổ sách của tề, công bố bản án tử hình của tên Tuỵ và bản án tử hình ở nhà tên Tuỵ, trong khi ta độp nhập phá tề, tên Tuỵ bỏ chạy sang nhà xứ Trung Thành hôm sau tên Tuỵ trở về hoảng sợ và một số tay sai của Tuỵ cũng hoảng sợ bỏ chạy không dám làm tay sai cho giặc. Sau khi cướp súng phá tề thôn Trà Hải Trung 2 ngày, địch tập trung vây quân lùng bắt 37 cán bộ đảng viên và quần chúng cách mạng đưa về bốt Đông Biên tra tấn rất dã man, ngay tối hôm đầu tiên địch đã đánh đập, tra tấn rất dã man anh Hoàng Văn Quảng một du kích kiên cường đã giữ vững khí tiết không khai báo, bị chúng đánh và anh dũng hy sinh. “[4]” .Số anh em còn lại chúng khảo tra, đánh đập rất dã man tàn nhẫn, có người chúng đánh chết đi sống lại, có người chúng bắt quỳ xuống 2 hòn gạch nung đỏ, có người chúng dìm xuống nước mà chúng gọi là cho đi tàu ngầm, có người chúng treo ngược lên xà nhà chúng gọi là cho đi tàu bay. Tất cả anh em đều giữ vững khí tiết không khai báo gì. vì không có chứng cứ gì chúng phải thả hết. Đây là một chiến công dưới sự lãnh đạo của đảng mà các đồng chí đảng viên, cán bộ và quần chúng cách mạng làm nên. chiến công lấy súng thắng lợi. Ngoài sự hy sinh anh dũng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân còn có sự giúp đỡ của những quần chúng được giác ngộ đã giúp đỡ để cuộc lấy súng thắng lợi đó là ông: Mai Văn Hạo sinh trú quán tại xóm 3 danh nghĩa ông Hạo là thư ký của Hội đồng Hương Dũng, nhưng đã được cách mạng cho đi theo dõi sự hoạt động và nắm quy luật hoạt động của địch báo cho ta biết. Ông Trần Văn Quyển sinh trú quán xóm 2, ông là người lính gác đêm hôm đó đã theo dõi và nhằm vào đúng giờ gác của mình, báo cho ta nắm vững thời gian nổ súng hành động mau lẹ, an toàn và kết quả. Tuy nhiên sau vụ cướp súng phá tề địch khủng bố mạnh, bọn tề với bản chất ngoan cố làm tay sai cho giặc chưa chịu cải tà quy chính, chúng dựa vào quan thầy trở lên gian ác hơn. chúng bắt cán bộ và du kích tối đến phải sang bốt trung thành ngủ tập trung để ngăn chặn sự hoạt động đi lại của ta, chúng thành lập các điếm canh, tổ chức các điếm canh và các địa điểm mà chúng thường cho là nơi thuận tiện cho ta hoạt động. chúng lập danh sách những đảng viên, cán bộ và những quần chúng tốt mà chúng nghi vấn tối đến phải có mặt ở điếm canh điểm danh và quản thúc.

Trong xã chúng lập 17 điếm phân chia như sau: thôn Trà Trung 9 điếm, Hội Nam 3 điếm, Hội Khê 5 điếm. Hình thức tổ chức; Dùng trống để cầm canh, Dùng kẻng để báo động, Dùng tù và khi có lệnh khẩn cấp.

Một số chúng bắt ra đường 21 coi đường dây thép, nếu đường dây bị cắt chúng buộc tội cho những anh em này. Ban ngày chúng tăng cường theo dõi, khống chế mọi hoạt động của ta. để củng cố và duy trì phong trào, lúc này chi bộ vẫn chủ trương hoạt động mạnh như: rải truyền đơn, chống thuế, đốt điếm canh, dán khẩu hiệu, cắt đường điện thoại trên đường 21 nhằm củng cố niềm tin cho quần chúng. đồng thời còn là những đỡ đòn cho số anh em còn đang bị giam giữ, giữ vững tinh thần cho số đảng viên ở lại bám đất, củng cố cơ sở, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh sắp tới.

Đêm ngày 06 tháng 2 năm 1951đại đội 91 của tỉnh và một số bộ phận của đại đội 33 - 26 từ khu du kích Trực Ninh vận động đột nhập sau vào vùng tạm chiếm Hải Hậu tiến công tiêu diệt "Đồn khâm" của xứ Tử Trùng (Hải Cát) do tên linh mục Vũ Đức Khâm chỉ huy, ta diệt gọn bọn vệ sĩ và bắn trọng thương tên Khâm. Sáng hôm sau 7 tháng 2 năm 1951 ta lại phục kích diệt viện tại chợ Mới (Hải Hậu) đánh tan một đại đội địch, chúng phá bỏ chạy để lại 50 xác chết và nhiều vũ khí đồ dùng quân sự.

Chiến thắng diệt "Đồn Khâm" và diệt viện tại chợ Mới làm nô nức lòng nhân dân Hải Nam, chi bộ Hải Nam tiếp tục chủ trương vùng lên phá tề, trừ gian xây dựng cơ sở, xây dựng phong trào. Ngay từ một tối tết âm lịch chi bộ tập trung trung đội du kích và nhiều cán bộ đảng viên tiến công phá tề thôn Trà Hải Trung lần thứ 2 liên tiếp trong 7 đêm liền, khiến bọn tề đêm sang bốt Trung Thành ngủ, ban ngày mới dám về. Tình thế lúc này ta hoàn toàn làm chủ ban đêm.

Sau một thời gian địch củng cố lại ban tề, ta kịp thời thuyết phục và nắm được tề thôn Trà Hải Trung, bắt chúng phải làm việc theo yêu cầu của ta. Từ đó ta xây dựng được cơ sở và phong trào phát triển khá mạnh, nhân dân phấn khởi tin tưởng. Sau một thời gian này du kích thôn Trà Hải Trung cùng bộ đội địa phương huyện còn tham gia phá tề xứ Văn Tập (Hải Nhuận xã Hưng Đạo cũ, nay là xã Hải Lộc), du kích thôn Hội Khê Nam cũng phối hợp với bộ đội địa phương huyện phá tề xứ Trung Thành (xã Phan Chu Trinh cũ nay là xã Hải Vân).

Trên chiến tuyến này, mặc dầu phải trải qua biết bao đau thương nhiều đảng viên và quần chúng cách mạng phải hy sinh trên vùng quê khói lửa nhưng rất mực kiên cường, vượt qua giai đoạn thử thách ác liệt giành thắng lợi rất vẻ vang.

Mặc dù bọn địch dùng mọi thủ đoạn để đàn áp cách mạng, kìm kẹp nhân dân. song chúng ta vấp phải sức chiến đấu ngoan cường, lòng trung thành của rất nhiều đồng bào, đồng chí, các đồng chí cán bộ, đảng viên, những người hoạt động bí mật đã được toàn dân trong xã chăm lo, đùm bọc, nuôi dưỡng. Trong toàn xã theo thống kê có tới 140 gia đình cơ sở trong thời gian bị địch tạm chiếm đã đào hầm, nuôi cán bộ, tiểu biểu như gia đình ông Lê Văn Sự xóm 9 đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng huân chương chống Pháp hạng Ba.

* 2 gia đình được Chính phủ tặng huy chương chống pháp hạng nhất đó là:

- Gia đình bà Trần Thị Lẫm xóm 2.

- Gia đình ông Lê Thanh Bình xóm 15.

* 13 gia đình được chính phủ tặng huy chương chống pháp hạng Nhì đó là:

Gia đình bà Lê Thị Chinh xóm 15.

Gia đình bà Phạm Thị Phung xóm 15

Gia đình bà Phạm Thị Quế xóm 1

Gia đình bà Trần Thị Cõn xóm 5.

Gia đình bà Trần Thị Định xóm 14.

Gia đình bà Lê Thị Thụ xóm 15

Gia đình ông Phạm Văn Thi xóm 18

Gia đình bà Trần Thị Roãn xóm 15

Gia đình ông Phạm Văn Hạ xóm 14

Gia đình ông Phạm Văn Thãi xóm 14

Gia đình ông Mai Văn Luật xóm 2

Gia đình bà Trần Thị Rịnh xóm 4

Gia đình bà Lê Thị Quỳnh xóm 14

124 gia đình còn lại được Uỷ ban  nhân dân tỉnh tặng Bằng khen.

Những đồng chí đảng viên đã rút vào hoạt động bí mật, kiên trì  bám đất, bám dân, giữ vững cơ sở, thuyết phục tề, dõng. trong nhiều đảng viên ưu tú đó, nổi lên là các đồng chí Phạm Hồng Thanh ở Hội Nam, đồng chí Đỗ Duy Nhiễu, đồng chí Phạm Văn Cam thôn Trà Trung, đặc biệt có đồng chí Lê Bật Ỷ bị địch bắt đưa lên Bùi Chu giam giữ, bị địch tra tấn dã man nhưng  đồng chí Ỷ vẫn trung thành với Đảng, với dân, không cung khai với giặc. Bất lực trước tinh thần bất khuất của đồng chí Ỷ bọn địch đã đưa đồng chí đi xử bắn. trước khi hy sinh đồng chí hô to “Đảng cộng sản Việt Nam muôn năm” .

Cùng giam với đồng chí Ỷ còn có đồng chí Trãi thôn Trà Trung, đồng chí Trãi cũng bị địch tra tấn dã man nhưng vẫn giữ vững khí tiết không chịu đầu hàng giặc. Bất lực bọn địch đã thủ tiêu đồng chí Nguyễn Văn Trãi cho đến nay gia đình, bà con vẫn chưa tìm thấy phần mộ của đồng chí Trãi.

Trong khi chi bộ và nhân dân  Hải Nam kiên trì bám đất, bám dân giữ vững phong trào, ngày 06 tháng giêng năm 1950 tại hội nghị cán bộ Tỉnh uỷ Nam Định đã họp đã rút kinh nghiệm cuộc chiến đấu chống địch thời gian vừa qua và đề ra nhiệm vụ cụ thể cho từng địa phương. Sau hội nghị một số cán bộ đảng viên lần lượt trở về vùng địch tạm chiến, bắt liên lạc với các đồng chí còn lại, xây dựng cơ sở, củng cố phong trào. Cũng trong thời gian 2 năm 4 tháng vùng địch hậu còn có 2 trường hợp chủ động tấn công địch mà cho đến nay thường được cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã nhắc đến và được ghi nhận. Trường hợp thứ nhất: Tập thể diệt tên Trần Văn Kha: Tên Trần Văn Kha sinh trú quán tại thôn Trung Thành xã Hải Vân. Trong thời gian 2 năm 4 tháng, tên này là tay sai cho giặc luôn theo dõi và báo cho địch đánh phá cơ sở cách mạng, chỉ điểm bắt cán bộ, đảng viên ta hoạt động bí mật. ngoài ra, tên này còn là một con nghiện và có tính mê gái. Một biểu chiều tên kha có về thôn Hội Nam, y đột ngột vào nhà ôn Hạ thuộc xóm 14, trong lúc đó ở tại gia đình ông Hạ có các ông: Khanh, Bình đang ngồi ở đó. Tình huống diễn biến mau lẹ buộc các đồng chí của mình phải xử trí. Sự hiểu ý nhau qua ánh mắt của ông Khanh, Hạ, Bình đã nhanh chóng bắt trói tên Kha lại; lấy tấm áo trùm đầu hắn và đem giải ra tạm giam tại nhà cụ Hán cách đó không xa; ngôi nhà cụ Hán 2 gian lợp rạ tường đất, mặt quay ra đồng dễ bề quan sát. Tên Kha luôn mồm xin tha tội chết và hứa giữ kín việc này không báo với cấp trên của y. Đêm đến, vào khoảng 1 giờ sáng các ông Thanh (xóm 18), ông Châu, ông Hà (xóm 14) mang hắn đến bờ sông cánh đồng Trùng 17. ông Hà là người thực hiện thủ tiêu tên Kha. (buộc vào đá dìm xuống sông). Sáng sớm, bà con đi làm phát hiện có xác nổi ở bờ sông. Các nhân chứng đều thống nhất khẳng định 3 ông Khanh, Châu, Hà là người thực hiện khâu cuối cùng “[5]”.

Ông Nguyễn Long Vân (còn có biệt danh là Võ Vân) sinh năm 1956.  hiện đang sống ở xóm 14 xã Hải Nam, là một giáo dân nhưng ông vân sớm giác ngộ cách mạng. Tháng 01 / 1950 ông tham gia vào lực lượng công an là phái viên của huyện Xuân Trường. Được tổ chức phân  công theo khu vực. ông Long Vân thường để mắt theo dõi Đinh Quang Điện là quận trưởng huyện Trực Ninh y thường xuyên về kiểm tra bốt Lạc Quần và bốt Thức Hóa (Giao Thuỷ). Do nắm vững được quy luật đi lại của tên Điện nên 16 giờ chiều ngày 28/10 / 1950 ông Long Vân phát hiện từ xa thấy tên Điện đi xe đạp từ phía đường Lạc Quần về bốt Thức Hóa (Giao Thuỷ). Ông Vân cải trang là người chăn vịt thả đồng. trong tay lúc này có một chiếc gậy dài khoảng 1.2 m là dụng cụ để thay vũ khí. liếc mắt, ướm chừng tên Điện cách khoảng trên dưới 2 m. ông Vân bất ngờ quay lại, nhanh chân đạp đổ chiếc xe đạp của tên Điện đang đi xuống đường, còn tên Điện mất đà toàn thân lăn xuống chân đê; chớp thời cơ ông Vân dùng bàn tay phải ra đòn chém vào gáy tên Điện. Điện chết ngay không kịp kêu. ông Vân sẵn dao dấu trong người xỉa hai nhát cho tên này chết hẳn; thu một khẩu súng tiểu liêu báng sắt chạy vào xóm 17 ngày nay. Sau 30 phút địch phát hiện, chúng đưa quân từ bốt Thức Hóa về bắt đi một số bà con đang thu hoạch gặt lúa ngoài đồng. Bắt những người này đưa về giam giữ tại bốt Thức Hóa để đánh đập, tra hỏi nhưng không có chứng cứ buộc phải thả về.

Trong khi chi bộ và nhân dân Hải Nam kiên trì bám đất, bám dân, giữ vững phong trào, ngày 6 tháng giêng năm 1950 hội nghị cán bộ tỉnh uỷ Nam Định đã họp để rút kinh nghiệm cuộc chiến đấu chống địch thời gian vừa qua và đề ra nhiệm vụ cụ thể cho từng địa phương. Sau hội nghị một số cán bộ đảng viên lần lượt trở về vùng địch chiếm đóng, bắt liên lạc với các đồng chí còn lại, xây dựng cơ sở, củng cố phong trào.

Đứng trước tình hình phát triển của cuộc kháng chiến. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 11 của Đảng ta đã khai mạc từ ngày 11 tháng 2 năm 1951. Đại hội đã đề đã những chủ trương đường lối đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi và quyết định đưa Đảng ta ra công khai, lấy tên là Đảng lao động Việt Nam. Để cụ thể hóa nghị quyết của đại hội II tỉnh Đảng bộ Nam Định đã tiến hành đại hội đại biểu từ ngày 20 tháng 3 đến ngày 03 tháng 4 năm 1951.

Dưới ánh sáng của đại hội trên, từ ngày 01 đến ngày 5 tháng 5 năm 1951 Đảng bộ Hải Hậu đã tiến hành đại hội đại biểu lần thứ 2 tại Quan Thẩm (Thái Bình). Đại hội đánh giặc tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh từ đại đội I. Tháng 6 năm 1947 và nhất là từ khi địch chiếm Hải Hậu cho đến nửa năm 1951 và đề ra 7 nhiệm vụ cơ bản trong toàn huyện trong thời gian tới.

1. Xây dựng củng cố cơ sở, tổ chức lại bộ máy lãnh đạo cho sát với hoàn cảnh.

2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vạch mặt bọn phản động đội lốt tôn giáo, tranh thủ giáo dân.

3. Lãnh đạo chống thuế đòi giảm tô.

4. Động viên toàn Đảng, toàn dân góp công, góp của cho cuộc kháng chiến.

5. Tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang và các làng chiến đấu.

6. Tăng cường công tác địch vận.

7. Vận động thuyết phục làm tan rã tề nguỵ.

Ngày 14 tháng giêng năm 1952 ta đánh trận cầu đôi (Hải Hưng) diệt một đại đội Âu Phi tinh nhuệ, đốt cháy 5 xe cơ giới, thu toàn bộ vũ khí, quân trang quân dụng.

Thư chi bộ theo miền để phổ biến chủ trương hoàn thành mở khu du kích, toàn bộ các xã trong huyện đều ra công khai hoạt động. Thực hiện chủ trương trên xã Hải Nam cũng bắt đầu công khai từ sáng ngày 15 tháng giêng năm 1952 chấm dứt thời kỳ đen tối “ 2 năm 4 tháng” cán bộ, đảng viên và nhân dân Hải Nam vô cùng phấn khởi, mọi người đều chung một cảm tưởng như giấc mơ, nhưng đó là sự thật hiển nhiên, quê hương ta đã được giải phóng. Trong thời gian địch tạm chiến, chi bộ Hải Nam vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo. Nhiều đảng viên tỏ ra tinh thần bất khuất trung thành với Đảng, với dân, cũng trong cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ đó phẩm chất cách mạng của đảng viên được bộc lộ rõ ràng nhất “Lửa thử vàng, gian nan thử sức” qua thời gian địch tạm chiến, lò lửa cách mạng đã đào thải 16 đảng viên là những người dao động, cầu an chạy dài đầu hàng đầu thú giặc, những phần tử cơ hội v.v…chiếm tỷ lệ 32 % so với tổng số đảng viên. Đến tháng 3 năm 1952 Hải Nam còn 34 đảng viên, những đảng viên đó đã được rèn luyện, thử thách qua đấu tranh cách mạng tỏ rõ phẩm chất và năng lực của người đảng viên cộng sản. Những đảng viên kiên trung ấy, cùng với nhiều đồng bào một lòng một dạ theo Đảng, sẵn sàng bước tiếp vào một giai đoạn mới, củng cố, giữ vững khu căn cứ du kích, chống phá càn quét bảo vệ quê hương đã được giải phóng.

III. CHI BỘ HẢI NAM LÃNH ĐẠO CỦNG CỐ GIỮ VỮNG KHU DU KÍCH, CHỐNG PHÁ ĐỊCH CÀN QUÉT BẢO VỆ QUÊ HƯƠNG ĐÃ ĐƯỢC GIẢI PHÓNG (THÁNG 3 NĂM 1952 ĐẾN THÁNG 7 NĂM 1954).

Những tháng đầu năm 1952 và với chiến thắng Văn Đàn, huyện Hải Hậu và phá và làm tan rã hoàn toàn 64 ban tề, mở khu du kích nối liền Hải Hậu với các huyện bạn.

Sau khi Hải Hậu trở thành khu du kích, bọn đầu sỏ các đảng phái phản động, một số bị ta bắt, một số bỏ chạy lên Bùi Chu hoặc thành phố Nam Định. Bọn phản động đội lốt thiên chúa giáo rút vào bí mật và chuyển hướng hoạt động chống phá cách mạng với những hình thức: Chui vào đoàn thể kháng chiến, phục hồi hoạt động của tổ chức “Thanh niên diệt cộng”  lợi dụng toà giảng để tuyên truyền, xuyên tạc. Bọn chúng còn tiến hành chiến tranh tâm lý, tung tin địch sẽ trở lại để gây hoang mang cho nhân dân.

Về phía ta, quần chúng vừa thóat khỏi ách kìm kẹp vui mừng hồ hởi. Những cuộc mít tinh, những đợt giải thích chính sách tự do tín ngưỡng và chính sách khoan hồng, những biện pháp cụ thể đem lại quyền lợi thiết thực cho người lao động đã làm cho đồng bào giáo cũng như lương, kể cả những người đã cộng tác với địch phần lớn đều phấn khởi, tin tưởng. Nhưng do bị địch xuyên tạc, không khỏi có người còn lo lắng, thấp thỏm sợ địch quay trở lại.

Trước tình hình đó, nhằm quán triệt nhiệm vụ trung tâm do tỉnh uỷ đề ra là “Giữ vững và mở rộng thắng lợi vừa qua ra sức xây dựng và mở rộng khu du kích và căn cứ du kích” . Huyện uỷ Hải Hậu đã triệu tập hội nghị mở rộng vào tháng 3 năm 1952. Hội nghị này đã đề ra một số nhiệm vụ “Tranh thủ thời gian, gấp rút xây dựng lực lượng mọi mặt, giữ vững và xây dựng khu du kích, gây phong trào giáo lương đoàn kết cải tạo tư tưởng cho những người tham gia tề dõng, củng cố lực lượng du kích, hoàn thành thu thuế nông nghiệp, đẩy mạnh tham gia sản xuất và đấu tranh kinh tế với địch, vận động tiêu tiền Việt Nam, tăng cường công tác địch vận, chuẩn bị mọi mặt chống địch càn quét, tiến hành chỉnh huấn trong Đảng”.

Nhận rõ Đảng là một nhân tố quyết định mọi thắng lợi, nên sau khi mở khu căn cứ du kích, huyện uỷ đã hết sức củng cố  các chi bộ ở Hải Nam, chi bộ đã tiến hành kiện toàn lại chi bộ về tư tưởng và tổ chức. Đồng thời khắc phục những thiếu sót trong thời gian vừa qua nhất là trong thời kỳ “2 năm 4 tháng”. Đến cuối năm 1952 ở Hải Nam có 24 đảng viên sinh hoạt ở một chi bộ qua kiện toàn lại tổ chức, chi bộ Hải Nam đã khắc phục được những thiếu sót, trưởng thành thêm một bước đủ sức lãnh đạo nhân dân hoàn thành những nhiệm vụ sắp tới. Đi đôi với kiện toàn chi bộ, chi bộ đã lãnh đạo uỷ ban kháng chiến hành chính thay thế cho uỷ ban kháng chiến hành chính trong thời kỳ địch hậu, do cấp trên chỉ định, kiện toàn các quần thể quần chúng. Đặc biệt chi bộ đã coi trọng xây dựng lực lượng xung kích chuẩn bị hầm hố, đào giao thông hào, vận động nhân dân đào hầm cất giấu của cải để đối phó với địch âm mưu càn quét từ quy mô nhỏ đến lớn.

Từ cuối năm 1952 đến đầu năm 1953, sau khi thất bại ở chiến trường Tây Bắc và một số nơi khác địch đã điều động một số lực lượng lớn về càn quét vùng đồng bằng. Địch mở cuộc càn Bờ-rơ-ta-nhơ càn quét vào 6 huyện Miền Nam tỉnh Nam Định bắt đầu từ ngày 1 tháng 12 năm 1952 địch đã tập trung một lực lượng lớn, gồm 21 tiểu đoàn, 50 cỗ pháo lớn, 50 xe lội nước, 550 xe cơ giới, 22 máy bay, 8 tàu chiến càn quét miền Nam Nam Định. Từ 2 tháng 12 năm 1952 địch bắt đầu càn vào Hải Hậu.

Hải Nam là một xã có vị trí quan trọng, là xã địa đầu phía Bắc và đông bắc của huyện, nên là xã đụng đầu đầu tiên với địch. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, dân quân du kích và nhân dân Hải Nam đã chiến đấu quyết liệt gây nên nhiều tổn thất. Sau khi địch càn quét huyện Xuân Trường, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương phối hợp với du kích Hải Nam bố trí sẵn sàng, chờ địch càn xuống sẽ diễn ra những trận đánh lớn, thì địch lại không xuống. Du kích Hải Nam tự lực chiến đấu với lực lượng quân Âu Phi tinh nhuệ của địch. Qua ba đợt chiến đấu tại thôn Trà Hải Trung ta diệt được 2 tên lính Pháp và bắn bị thương một số tên khác.  Nhờ có sự chuẩn bị sơ tán nhân dân, cất giấu thóc lúa, của cải nên ta đỡ thiệt hại về người và của. Trong trận chiến đấu này ta bảo toàn lực lượng. Địch càn xã Hải Nam, đêm địch lại đóng thôn Trà Hải Trung lực lượng ta ra ngoài và cử 2 quân báo về bám sát địch, khi về tới cánh đồng bị bất ngờ địch nổ súng, một đồng chí hy sinh. Ngày hôm sau 24 tháng 12 năm 1952 địch càn xuống Hải Hưng, du kích luồn về ngay bám đất, bám dân và bố trí đánh địch trên đường 21, đề phòng bọn địch ở bốt Trung Thành sang càn quét. Trong cuộc càn này huyện đội Hải Hậu ra thông báo biểu dương tinh thần chiến đấu dũng cảm của du kích Hải Nam để cổ vũ, động viên các xã thi đua giết  giặc lập công. Kết thúc trận càn Hải Nam bình bầu được một chiến sỹ thi đua đi dự hội nghị chiến sỹ thi đua của toàn huyện. Sau trận càn chi bộ tổ chức rút kinh nghiệm để tiếp tục chỉ đạo chống càn các trận sau.

Cuộc càn Bờ-rơ-ta-nhơ địch thực hiện được một phần âm mưu của chúng, từ tháng 5 năm 1953 địch tập trung một số binh đoàn Âu Phi cùng nhiều tiểu đoàn khinh quân càn quét nhiều ngày, có trọng điểm nhằm tiêu diệt chủ lực của ta, vơ vét của cải, bắt thêm binh lính bổ sung cho quân số thiếu hụt. Thực hiện âm mưu này địch tăng cường nhiều cuộc càn quét nhỏ ở Xuân Trường, Giao Thuỷ, về phía ta tiểu đoàn 66 của tỉnh tập trung ở Hải Hậu và lấy Hải Nam làm bàn đạp luồn sâu vào sau lưng địch phục kích tiêu diệt địch ở Hội Khê Bắc, Kiên Lao, diệt tề vũ trang Vạn Lộc, Trung Linh. Trong các trận trên du kích Hải Nam đều được đi phối hợp nổi bật là trận phục kích ngày 16 tháng 5 năm 1958 tại Hội Khê ngoại diệt 5 địch trong đó có 1 tên quan Hai.

Ngày 21 tháng 6 năm 1953, Hải Nam phối hợp với bộ đội địa phương chống càn ở thôn Trà Hải Trung diệt 13 tên, bắt sống 1 đại đội và thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng, trong đó ta thu được 1 đại liên, 2 trung liên, 1 Mooc-chi-ê sau trận diệt gọn một đại đội này địch phải dùng 4 máy bay B26 đánh phá thôn Trà Hải Trung làm 11 người chết và một số bị thương (trong đó có gia đình chết 1 đến 2 con), năm gia đình bị cháy trụi.

Ngày 1 tháng 7 năm 1953 địch mở cuộc càn Ta-răng-te-dơ đánh xuống Hải Hậu, Nghĩa Hưng, lực lượng gồm 1 tiểu đoàn hỗn hợp, 5 tàu chiến, 21 ca nô, sau cuộc càn địch chốt lại bốt Đông Biên, Văn Lý, Tang Điền. Trận càn này du kích Hải Nam bố trí đánh mìn trên đường 21 kết quả 7 lần xe bị trúng mìn làm nổ tung 8 xe (có một trận 1 quả mìn làm nổ tung 2 xe) và liên tiếp đánh bọn địch bắt phu sửa đường 21 tại khu Chợ Trâu. Kết quả ta tiêu hao được sinh lực ngăn cản tiếp viện của địch cho bốt Đông Biên (trận càn này địch không trực tiếp càn vào xã Hải Nam).

Ngày 18 tháng 5 năm 1954 vị trí Đông Biên ta bị bao vây chặt, địch điều 2 tiểu đoàn số 4 và số 9 thuộc binh đoàn cơ động số 2 đi cứu viện cho bốt Đông Biên, đến  quãng Trà Hải Trung đi Cầu Đôi chúng bị tiểu đoàn Kiên Trung, Bến Hiệp (đại đoàn 320) chặn đánh tiêu diệt nhiều tên, bắt sống hơn 300 tên, thu một đại bác 57 milimét và nhiều súng đạn trang bị khá. Trong trận này dân công và du kích Hải Nam phục vụ rất đắc lực cho bộ đội đánh thắng.

Sau chiến thắng 18 tháng 5, ta xiết chặt vòng vây 2 vị trí Đông Biên, Thức Hóa (Giao Thuỷ) huyện đội dân quân Hải Hậu hiệu lệnh cho du kích Hải Nam đi tham gia bao vây Đông Biên cùng các huyện bạn Xuân Trường , Giao Thuỷ, bao vây bốt Lạc Quần, Thức Hóa cho đến khi bộ đội chủ lực, đại đoàn 320, tiểu đoàn 66 của tỉnh nhổ nốt bốt Thức Hóa ngày 25 tháng 5 năm 1954 và diệt cứ điểm Đông Biên ngày 03 thang 6 năm 1954. Theo thống kê số liệu từ 15 tháng giêng 1952 đến 03 thang 6 năm 1954, dưới sự lãnh đạo của chi bộ, được nhân dân thương yêu, đùm bọc lực lượng du kích xã Hải Nam phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tỉnh và huyện đã chống càn 117 trận, tiêu diệt 118 tên địch (trong đó có một tên Quận trưởng và một tên quan Hai), thu 12 súng trường, 1 súng ngắn, 1 đại liên, 1 trung liên, 1 moóc-chi-ê. Suốt quá trình chiến đấu ác liệt để củng cố và giữ vững khu căn cứ du kích, giải phóng quê hương, cả xã 12 du kích đã anh dũng hy sinh, góp phần xứng đáng cho thắng lợi quê nhà. Đây là những con người vẹn tròn hiếu nghĩa, sống vì dân, chết cũng vì dân, tên tuổi của họ sống mãi trong lòng mọi người và các thế hệ mai sau. Với lòng căm thù địch sâu sắc, lại được sự cổ vũ mạnh mẽ của những chiến thắng nói trên, 258 thanh niên Hải Nam đã tình nguyện gia nhập bộ đội, hàng ngàn dân công hoả tuyến, thanh niên xung phong công tác tại địa phương đã huy động lực lượng hân dân đào hào giao thông xây dựng làng chiến đấu, phá hoại đường 21 và đường 51. Có tới gần 100.000 ngày công và hàng chục ngàn khối đất, góp phần xứng đáng vào việc giải phóng quê hương và góp phần nhỏ bé vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành nhiều thắng lợi vẻ vang.

Trải qua mấy năm kiên trì đấu tranh với địch, phát triển đấu tranh du kích, chi bộ Hải Nam đã lãnh đạo nhân dân thu được nhiều thắng lợi.


“[1]”  Danh sách các Chủ tịch xã qua các thời kỳ của xã Xuân Hoà trang 193 lịch sử Đảng bộ xã Xuân Hoà xuất bản năm 2007.

“[2]”  Trang 191 Lịch sử Đảng bộ xã Xuân Hoà xuất bản năm 2007.

“[3]” ông Mai Văn Liết đã được Ban Chấp hành Hội nông dân Việt Nam tặng huy chương giai cấp nông dân Việt Nam. Ông là 1 trong 2 cán bộ nông hội đỏ của huyện Hải Hậu.

“[4]”  Ông Hoàng Văn Quảng đã được công nhận là liệt sỹ.

“[5]” ông Hà sau này là liệt sỹ. Các ông Nghị và Yêm đều ký xác nhận là người cung cấp nguồn tin này (ông Bùi Sỹ Nghị là đảng viên chi bộ 14 ; ông Trần văn Yêm là người xóm 15).

 

CHƯƠNG III
MƯỜI NĂM KHÔI PHỤC KINH TẾ, CẢI TẠO VÀ XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN HẢI NAM
(1954 - 1965)

I. CHI BỘ HẢI NAM LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CHỐNG ĐỊCH CƯỠNG ÉP DI CƯ VÀO NAM, ĐẤU TRANH HOÀN THÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH: BA NĂM KHÔI PHỤC KINH TẾ

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xây lược của nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi rực rỡ: Hiệp định Giơ-ne-vơ đã được ký kết. Cách mạng nước ta bước sang giai đoạn mới: Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam đấu tranh hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà.

Ở miền Bắc ngay sau khi hoà bình lập lại, nhân dân ta bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đồng thời, nhiệm vụ trước mắt lúc đó là đấu tranh để thực hiện hiệp định đình chiến, chống địch dụ dỗ và cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam, hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế để chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Sau khi hoà bình lập lại, bối cảnh và nhiệm vụ của chi bộ và nhân dân xã Hải Nam cũng nằm trong tình hình chung của cả nước. Để cứu vãn tình thế thất bại, dựa vào điều khoản 14 D của hiệp định, đế quốc Mỹ - Pháp và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm ra sức thực hiện âm mưu dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân Miền Bắc, đặc biệt là đồng bào thiên chúa giáo di cư vào Nam, địch coi tỉnh Nam Định là địa bàn trọng yếu để thực hiện âm mưu này. Trung ương Đảng nhận định: Cuộc đấu tranh chống địch dụ dỗ cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam thực chất là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc rất gay go, dưới hình thức là một cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng rất phức tạp. Vì vậy mỗi đảng viên cán bộ cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của cuộc đấu tranh này, trung ương chỉ thị cho các địa phương phải lấy công tác này làm công tác trung tâm đột xuất và tập trung lực lượng để đối phó với âm mưu của địch.

ở Hải Nam ở thôn Trung Thành là tập trung giáo dân đông và một họ lẻ Nam Đồng thuộc xứ Thức Hóa (Xuân Thủy) bọn phản động và bọn địa chủ cường hào tề dõng, ngụy quân khá nhiều. Do đó cuộc đấu tranh chống di cư Hải Nam rất gay go quyết liệt.

Địch đã tìm mọi cách cưỡng ép đồng bào ta bằng nhiều thủ đoạn thâm độc, chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc chính sách của Đảng và Chính phủ như chính sách tôn giáo, chính sách khoan hồng. Địch dùng thần quyền giáo lý đánh mạnh vào tâm lý tín ngưỡng của giáo dân bằng cách phao tin "Đức mẹ rời vào Nam", "Các cha vào Nam mang linh hồn các con chiên vào theo". Địch dùng nhiều tiền bạc, nhiều phương tiện để phục vụ cho âm mưu này.

Đứng trước âm mưu và hành động của địch. Được sự chỉ đạo của huyện ủy, chi bộ Hải Nam đã có những chủ trương và hành động đúng đắn. Chi bộ Hải Nam đã tổ chức nhiều tổ công tác (gồm những cán bộ có năng lực, có uy tín) đến từng gia đình có hiện tượng di cư giải thích cho đồng bào hiểu rõ chính sách của Đảng, vạch trần âm mưu của địch. Chi bộ đã phân công cho từng đảng viên, cán bộ ngày đêm theo dõi tình hình ở từng khu xóm khu Trung Thành và có biện pháp đối phó kịp thời. Do có biện pháp cụ thể, do tinh thần chịu đựng gian khổ, kiên trì thuyết phục của cán bộ và đảng viên. Nhân dân, chi bộ Hải Nam đã lãnh đạo thắng lợi cuộc đấu tranh chống địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di cư ở thôn Trung Thành đập tan âm mưu của địch. Tuy nhiên cũng có một số hộ và cá nhân còn mắc mưu địch đã vào Nam. Ngoài ra có 18 hộ đi theo giặc vào Nam từ 1952 chủ yếu là bọn địa chủ, cường hào tề nguỵ có nợ máu với nhân dân, còn tuyệt đại bộ phận thôn Trung thành và họ lẻ Nam Đồng nhân dân đều ở lại quê hương bắt tay vào công cuộc khôi phục hàn gắn kinh tế sau chiến tranh.

Trải qua mấy năm chiến tranh, địch càn đi quét lại tình hình kinh tế ở Hải Nam rất khó khăn, đồng ruộng tiêu điều (những nơi cạnh đường 21 địch kiềm toả ác liệt một số diện tích không thể cày cấy được một số xóm gần đó khi nhân dân trở về chỉ còn là vườn không nhà trống) xóm làng xơ xác. Hơn 100 mẫu ruộng ở Đồng Hóa, Thần Cuông mới cấy 1vụ, nhiều ruộng đất còn bỏ hoang, trâu bò dụng cụ lao động thiếu một cách nghiêm trọng. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, nhân dân Hải Nam đã bắt tay vào khôi phục khinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp nhằm nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân, năm1956-1957 chi bộ đã lãnh đạo nhân dân hoàn chỉnh đắp đê Đồng Trùng, tiến hành cải tạo ruộng đất biến cánh đồng Đồng Hóa và Thần Cuông từ 1 vụ thành hai vụ sản xuất chính.

Song song với công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, chi bộ Hải Nam đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh với giai cấp địa chủ  phú nông đòi giảm tô, giảm tức lấy lại ruộng đất. nhưng ruộng đất chủ yếu nằm trong tay giai cấp địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân cày cấy là một trong hai nhiệm vụ của cách mạng dân tộc, dân chủ và nhân dân. ở hải nam, trong kháng chiến chỉ mới tịch thu ruộng đất công của việt gian, phản động, vắng chủ chia cho nông dân cùng với ruộng công điền, trong thời gian địch tạm chiến bọn tề, nguỵ lại cướp lại ruộng đất của người nông dân, người nông dân không có ruộng cày, cấy, giai cấp địa chủ, phong kiến ở hải nam chiếm hầu hết ruộng đất. Thực hiện chủ trương “người cày có ruộng” của Trung ương Đảng, được sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ Nam Định và Huyện uỷ Hải Hậu, chi bộ đảng xã Hải Nam đã tạm cấp ruộng đất vắng chủ cho nông dân nghèo không có ruộng cày cấy.

- Thực hiện Nghị quyết lần thứ 7 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa II và Nghị quyết kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa I về tăng cường lãnh đạo nông thôn, chủ yếu là phát động quần chúng đấu tranh đòi giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất. Năm 1956 đoàn uỷ cải cách ruộng đất trung ương đã cử đội công tác phát động quần chúng cải cách ruộng đất về xã Hải Nam, đi sâu vào tầng lớp “bần cố nông”, “ thăm nghèo hỏi khổ”, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Được tin đội về, bà con nông dân vô cùng phấn khởi! vấn đề người cày có ruộng không chỉ là khẩu hiệu mà trở thành hiện thực. bà con ông dân, nhất là bần cố nông đã hăng hái, đoàn kết đấu tranh vạch trần những thủ đoạn bất công của giai cấp địa chủ và phong kiến gian ác. Người nông dân Hải Nam đã vùng dậy với sức mạnh như thác đổ, triều dâng. Trong vòng 7 – 8 tháng nhân dân Hải Nam đã đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ cùng 29 tên (kể cả về kinh tế và  uy thế chính trị).

Toàn bộ số ruộng đất, giai cấp địa chủ chiếm hữu đã bị tịch thu chia cho nông dân không phân biệt nam hay nữ. ngày đi nhận ruộng thực sự là ngày hội của nhân dân lao động. bao đời mơ ước có ruộng cấy, trâu cày nay trở thành hiện thực, người nông dân bùng lên thực sự làm chủ đời mình, làm chủ nông thôn. Người nông dân hải nam xúc động nghĩ đến công lao to lớn mà đảng và bác hồ đã đem lại cho họ!

Cải cách ruộng đất đã thực hiện mục tiêu xoá bỏ chế độ người bóc lột người, quyền uy của địa chủ phong kiến thực sự bị đánh gục,  địa vị của giai cấp nông dân được xác lập và nâng cao từ thân phận người nô lệ, làm thuê trở thành người chủ đồng ruộng, tạo điều kiện để phát triển kinh tế, xã hội nông thôn, góp phần cùng toàn nhân dân miền Bắc hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân bước vào thời ký quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, cải cách ruộng đất là bước đi tất yếu của cách mạng dân tộc, dân chủ.

Cải cách ruộng đất là cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt ở nông thôn giữa giai cấp nông thôn bị giai cấp địa chủ phong kiến bóc lột, đàn áp từ bao đời nay. Thành công của cải cách ruộng đất là to lớn, là vĩ đại! song trong quá trình chỉ đạo thực hiện do chủ quan, phiến diện chúng ta đã phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng đã kéo dài. Do cải cách ruộng đất đã kết hợp với chỉnh đốn tổ chức, vận dụng kinh nghiệm nước ngoài một cách máy móc giáo điều.

Đội cải cách ruộng đất toàn quyền đảm nhiệm mọi công việc của xã. nhiều hoạt động của các đội cải cách ruộng đất mang tính “quá tả” dẫn đến tình trạng nghi kỵ, ngờ vực nội bộ, gây nhiều tổn thất cho đảng bộ…việc quy định thành phần giai cấp tuy có điều tra nghiên cứu nhưng do hời hợt, làm ẩu không tham khảo ý kiến của đảng bộ và quần chúng tốt nên đã dẫn đến quy oan, sử lý sai một số người gây tình trạng căng thẳng không đáng có trong nông thôn. vì vậy, kết quả cải cách ruộng đất bị hạn chế, vai trò lãnh đạo và uy tín của đảng bị giảm sút.

Khi phát hiện sai lầm cải cách ruộng đất từ tháng 4/1956 Đảng ta kiên quyết sửa chữa. Thực hiện nghị quyết của Tỉnh uỷ, từ cuối năm 1956, được sự chỉ đạo sát sao của Huyện uỷ, chi bộ đã tổ chức các đợt học tập cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về Nghị quyết lần thứ 10 ( tháng 9 /1956 ) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II. Lời kêu gọi ngày 18 /8/ 1956 của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thông cáo của Chính phủ về kế hoạch sửa chữa sai lầm về cải cách ruộng đất.

Để đảm bảo cho công tác sửa chữa đạt kết quả cao góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ cải cách ruộng đất của đảng, đầu năm 1957 Tỉnh uỷ đã mở  đợt học tập về tính chất, nhiệm vụ đảng viên ở cơ sở xã. Tiếp đó, tỉnh uỷ mở đợt học tập liên hệ tự phê bình và phê bình ở các cấp uỷ đảng, đảng, đoàn, các ban ngành trong tỉnh. việc tổ chức học tập và kiểm điểm được tiến hành khẩn trương, nghiêm túc đem lại niềm tin cho nhân dân, tạo được không khí phấn khởi, đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân, tổ chức đảng và nhân dân trong xã.

Thông cảm cùng khó khăn của Đảng và Nhà nước, với trách nhiệm của người cán bộ đảng viên đã qua rèn luyện thử thách. nhiều cán bộ chủ chốt bị xử lý sai trong cải cách ruộng đất đã nhận nhiệm vụ cùng tuyên truyền, giải thích, hoà giải, vận động bà con đoàn kết, nhanh chóng khắc phục những sai lầm còn tồn tại trong cải cách ruộng đất. Với phương châm “sai đâu sửa đấy”, “có sai có sửa” đến cuối năm 1957 nhiệm vụ sửa sai được hoàn thành.

Những đảng viên, cán bộ xử lý sai đã được Tỉnh uỷ ra  quyết định phục hồi Đảng tịch và chức vụ, phục hồi danh dự và công lao đối với những cán bộ đảng viên đã bị tổn thất do sai lầm cải cách ruộng đất. Uỷ Ban nhan dân tỉnh cũng ra quyết định sửa lại thành phần giai cấp do một số người bị quy sai và đền bù một phần tài sản cho họ.

Căng thẳng từng bước được giải toả. đoàn kết nội bộ đảng và trong nhân dân giữa cán bộ mới và cũ được củng cố và tăng cường. ban chỉ uỷ được kiện toàn và phát triển. Chi bộ và nhân dân Hải Nam đã tập trung chiến đấu phục hồi sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống nhân dân tạo đà cho bước phát triển mới.

Trong những năm khôi phục kinh tế và tiến hành cải cách ruộng đất bộ mặt nông thôn Hải Nam đã thay đổi từng ngày. Nhà cửa của nông dân tiếp tục được xây dựng lại. Đường sá được mở mang các công trình công cộng như: trụ sở Uỷ ban, nhà văn hóa …được xây dựng, phong trào học tập văn hóa nhằm xoá nạn mù chữ diễn ra sôi nổi và có bước phát triển tốt.

Cũng trong quá trình đấu tranh cách mạng ấy, chi bộ Hải Nam ngày càng phát triển. Trong những năm đầu sau khi hoà bình lập lại, chi bộ Hải Nam đã kết nạp thêm được 16 đảng viên, nâng đảng số lên 50 đồng chí. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Hải Nam đã giành được nhiều thắng lợi rực rỡ trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, cải cách ruộng đất. Những thắng lợi ấy là tiền đề rất căn bản, để chi bộ và nhân dân Hải Nam bước vào giai đoạn mới- giai đoạn cải tạo nền kinh tế phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa.

II. CHI BỘ HẢI NAM LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐỐI VỚI NÔNG NGHIỆP VÀ PHẤN ĐẤU ĐỂ HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1958 - 1964).

Ngay sau khi hoàn thành cải cách ruộng đất chi bộ Hải Nam lãnh đạo nhân dân song song phất cao ba ngọn cờ hồng ở nông thôn. Từ tổ đổi công hình thức tiền thân của hợp tác xã nông nghiệp trên đà phát triển đó năm 1959 chi bộ Hải Nam đã xây dựng thí điểm hợp tác xã nông nghiệp Trần Phú ở xóm 6 thôn Trà Hải Trung và hợp  tác xã mua bán tín dụng cũng ra đời.

Mùa thu năm đó một hợp tác xã nông nghiệp ở ba thôn đã được xây dựng. Phong trào hợp tác xã hóa Hải Nam đã hoàn thành vào loại sớm của huyện, được tặng cờ xã sớm hoàn thành hợp tác xã nông nghiệp của Uỷ ban huyện. Trên cơ sở đó sản xuất phát triển, bước đầu áp dụng khoa học kỹ thuật đưa vào sản xuất nông nghiệp cho nên năng suất lúa đã được từng bước nâng lên. Năm 1956 Hải Nam chỉ đạo 45 tạ/ ha. Năm 1960 đã đạt 48 tạ/ ha. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cũng được nâng lên rõ rệt.

Đến năm 1961 xã Hải Nam có 13 hợp tác xã. Đầu năm 1964, 13 hợp tác xã lại hợp nhất thành 3 hợp tác xã ở ba thôn với 95 % số hộ nông thôn lao động. Từ năm 1971 – 1975 đồng chí Hoàng Thị Tiển là chủ nhiệm HTX Trà Trung được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (2 khóa). Ngày 01/4/1971 nữ đồng chí Nguyễn Thị Kim Liên (tức đồng chí Hoàng Thị Tiển)  được bầu làm đại biểu Quốc hội của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khóa III. Đây là một gia đình có truyền thống, ngoài nữ đồng chí Nguyễn Thị Kim Liên  (nữ đồng chí Tiển ra) còn có 2 cô em gái đó là:

+ Nữ đồng chí Nguyễn Thị Rần (chị) tức Phạm Thị Toả tham gia ban chấp hành Đảng bộ xã và được bầu là Bí thư Đảng uỷ khóa năm 1969.

+ Nữ đồng chí Nguyễn Thị Rần (em) tức Mai Thị Linh cũng tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ xã và được bầu là Bí thư Đảng uỷ khóa năm 1989 - 1990.

Cuộc đấu tranh giữa hai con đường tập thể và cá thể diễn ra ở nông thôn miền Bắc nói chung và Hải Nam nói riêng khá quyết liệt. Cuộc đấu tranh ấy, xuất phát từ tính tư hữu của giai cấp nông dân, người nông dân mơ ước có ruộng cày cấy, trâu cày nay đã thành sự thực. Giờ đây vào hợp tác xã đi vào làm ăn tập thể người nông dân không khỏi có những băn khoăn, do dự  trong những tính toán và lợi ích cá nhân của mình. Nắm được tư tưởng băn khoăn của người nông dân, chi bộ Hải Nam đã tổ chức cho nông dân học tập, hiểu rõ hơn con đường tiến lên hợp tác xã là con đường ấm no, hạnh phúc. Chi bộ Hải Nam đã nắm chắc và làm đúng ba nguyên tắc trong khi tiến hành xây dựng hợp tác xã nông nghiệp.Dưới sự chỉ đạo của chi bộ, bộ mặt kinh tế ở Hải Nam đã thay đổi rất nhiều, sự thay đổi ấy đã kéo theo sự thay đổi của văn hóa xã hội. Phong trào văn hóa văn nghệ ở Hải Nam phát triển tốt, đến năm 1959 Hải Nam được công nhận là xã thanh toán nạn mù chữ. Cũng trong quá trình đấu tranh cách mạng ấy, chi bộ Hải Nam ngày càng phát triển, cũng năm 1960 chi bộ Hải Nam đã được thành lập Đảng bộ và đến năm 1964 Đảng bộ Hải Nam đã có 103 đảng viên sinh hoạt tại 4 chi bộ.

Trải  qua hơn 10 năm cải tạo và xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Hải Nam đã giành được những thắng lợi. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn đã được xác lập ngày càng củng cố. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động được nâng lên rõ rệt. Những thắng lợi ấy là tiền đề chắc chắn cho bước phát triển sau này của Đảng bộ và nhân dân Hải Nam góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cả nước: xây dựng hậu phương lớn miền Bắc, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tiến tới thống nhất Tổ quốc.

 

CHƯƠNG IV
ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU
CHI VIỆN ĐẦY ĐỦ CHO TIỀN TUYẾN ĐÁNH THẮNG GIẶC MỸ XÂM LƯỢC (1965 - 1975)

Trong lúc nhân dân miền Bắc đang hăng hái lao động phấn đấu hoàn thành kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất. Nhân dân miền Nam đánh bại chiến tranh của đế  quốc Mỹ, bọn xâm lược Mỹ đã tiến hành các cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân chống nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Mở rộng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nhằm phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, cứu nguy cho quân đội Sài Gòn, hòng buộc nhân dân ta kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng theo những điều kiện có lợi cho chúng. Đứng trước tình hình mới, hội nghị lần thứ 11 và lần thứ 12 của Ban chấp hành trung ương Đảng đã chỉ rõ. Nghị quyết của hội nghị đã nêu: Nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là “Kịp thời chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức. Chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng  quốc phòng. Trong việc chuyển hướng này phải làm cho miền Bắc có đủ sức mạnh nhằm đáp ứng đủ yêu cầu bảo vệ miền Bắc, chống lại các cuộc ném bom bắn phá và phong toả của địch, sẵn sàng đối phó với tình hình địch mở rộng chiến tranh ở bất cứ mức độ nào, hết lòng, hết sức chi viện cho cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam ruột thịt. Đồng thời đáp ứng yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”.

Chấp hành chỉ thị, nghị quyết của trưng ương Đảng, của tỉnh uỷ, Đảng bộ và nhân dân Hải Nam cũng như nhân dân toàn huyện đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi “Tay cày, tay súng” sẵn sàng đập tan chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chi viện đầy đủ cho tiền tuyến lớn miền Nam.

I. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965 - 1972)

Vị trí địa lý Hải Nam rất quan trọng, đường 21 và đường 51 chạy qua xã. Đó là những đường giao thông quan trọng, mục tiêu đánh phá của đế quốc Mỹ. Ngay sau khi đế quốc phát động chiến tranh phá hoại miền Bắc, Đảng bộ Hải Nam đã tổ chức triển khai nghị quyết của trung ương tới toàn thể đảng viên và nhân dân. Đảng bộ đã quán triệt đầy đủ tình hình và nhiệm vụ biện pháp chống chiến tranh phá hoại, phát triển sản xuất.

Nhận rõ tính chất dã man, ác liệt của chiến tranh phá hoại, Đảng bộ Hải Nam đã lãnh đạo nhân dân làm một hệ thống hầm hào và những trận chiến đấu ở những nơi có mục tiêu cao điểm nhằm chống máy bay của địch. Đặc biệt những trường học, trạm xá, nơi hội họp công cộng đều có kế hoạch sơ tán, có kế hoạch che phòng và đủ hầm hào chu đáo, các cháu học sinh có kế hoạch tập dượt báo động khi có máy bay địch tới.

Lực lượng dân quân du kích được tổ chức chặt chẽ cho từng trung đội, đại đội. Lúc đó Hải Nam có hơn 1.000 dân quân du kích, ban chấp hành Đảng uỷ đã phân công đồng chí đảng viên trực tiếp làm chính trị viên xã đội, những đồng chí bí thư chi bộ làm chính trị viên đại đội, trung đội, xã tổ chức mỗi thôn và nơi sản xuất tập thể một trạm tiền tiêu báo động máy bay địch từ xa tới. Ở những vị trí quan trọng như cầu Thức Hóa, Đảng uỷ đã tổ chức một lực lượng dân quân trực chiến thường xuyên. Đơn vị dân quân này trong những năm chiến tranh phá hoại đã nổ súng 11 trận, góp phần bảo vệ cầu Thức Hóa, đảm bảo giao thông tỉnh lộ 51. Lực lượng dân quân du kích ở Hải Nam còn cử một tổ trực chiến ra bảo vệ bờ biển Hải Thịnh, Hải Đông. Hàng năm dân quân du kích Hải Nam đã tập trung huấn luyện 15 ngày để nâng cao kỹ thuật tác chiến. Vừa sẵn sàng chiến đấu, lực lượng dân quân Hải Nam còn kết hợp sản xuất, hàng năm thu được 6 đến 7 tấn thóc. Do đó đã có chi phí để mua quân trang như: giầy dép, quần áo, mũ đồng loạt. Dân quân Hải Nam là một trong những xã dẫn đầu của huyện về tự túc lương thực.

Vừa lãnh đạo tốt việc sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Đảng bộ Hải Nam vẫn coi sản xuất là nhiệm vụ chính và tập trung lãnh đạo, tổ chức tốt sản xuất trong thời chiến. Để phù hợp với thời chiến, Đảng bộ đã tổ chức cho nhân dân đi làm sớm về buổi sáng và làm muộn về buổi chiều tránh giờ cao điểm buổi trưa. Tổ chức từ 3 đến 5 người vào một nhóm, xã viên đi làm đều có nguỵ trang, túi thuốc cá nhân. Riêng sản xuất cói ở nơi cao điểm phải chuyển sang sản xuất ban đêm. Các ban quản lý các hợp tác xã đã được kiện toàn. Thành phần đảng viên, cấp uỷ Đảng giữ vai trò chủ chốt trong cấp uỷ Đảng được tăng cường, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp ở Hải Nam trong những năm chiến tranh phá hoại vẫn ngày càng được củng cố và phát triển, tài sản tính mạng người lao động được đảm bảo an toàn. Đảng bộ Hải Nam đã tập trung lực lượng, trí tuệ vào sản xuất lương thực. Trong báo cáo chính trị tại đại hội Đảng bộ Hải Nam lần thứ tư năm 1965 có viết “Tích cực phát huy sức mạnh lao động tập thể, đảm bảo đầu tư lao động vào sản xuất nông nghiệp nhiều hơn mọi năm, nhằm thực hiện thâm canh tăng năng suất trên toàn bộ diện tích trồng cây phấn đấu đưa sản lượng lương thực lên cao nhằm không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, tăng tích luỹ cho hợp tác xã  và đóng góp cho nhà nước”.

Để hoàn thành thắng lợi nghị quyết, Đảng bộ Hải Nam đã tích cực và mạnh dạn đưa khoa học vào sản xuất nông nghiệp. Cuối năm 1965, Hải Nam đã căn bản quy hoạch các công trình thuỷ lợi, hoàn thành tốt bờ vùng, bờ thửa, phát triển tốt các tổ tưới tiêu ở các đội sản xuất. Hợp tác xã đã phát động phong trào thi đua làm phân bùn, phân xanh, nuôi thả bèo hoa dâu, bón phân hữu cơ cho lúa đạt 80 gánh phân chuồng trên một mẫu bắc bộ. Vấn đề giống lúa cũng được Đảng bộ đặc biệt quan tâm. Từ cuối năm 1964 trở đi Hải Nam đã bắt đầu sử dụng nhiều loại giống mới như NN5, NN8. Do áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp do sự nỗ lực của bà con xã viên, năng suất và sản lượng lương thực ở Hải Nam ngày càng tăng (1). Đi đôi với trồng trọt Hải Nam đã chú trọng đến chăn nuôi. Từ những năm 1960, Đảng bộ Hải Nam đã xác định trồng trọt chăn nuôi là hai ngành chính của nông nghiệp, chúng có tác động hỗ trợ lẫn nhau. Trong việc đẩy mạnh chăn nuôi, hợp tác xã chú trọng cả chăn nuôi tập thể và gia đình xã viên. Cuối năm 1965 tất cả ba hợp tác xã nông nghiệp ở Hải Nam đều có trại chăn nuôi tập thể và đạt mức hơn 1.500 con lợn. Song song với sản xuất nông nghiệp Hải Nam còn chú trọng phát triển cây công nghiệp. Năm 1965 thực hiện chủ trương của Đảng uỷ đưa cây cói vào đồng Trùng. Lúc đầu phải đi lấy giống từ nông trường Rạng Đông về trồng thí điểm trên diện tích 9 mẫu Bắc Bộ, làm cơ sở mở rộng diện tích những năm sau. Riêng hợp tác xã thôn Trà Trung đã huy động lao động quai đê mở thêm 17 mẫu Bắc Bộ ở cánh đồng Lá Cờ của xã Hải Phúc nhượng cho, lúc đầu cấy lúa 1- 2 vụ sau trồng cói. Cây cói năm 1964 mới bắt đầu canh tác trên một diện tích rất nhỏ là 20 mẫu Bắc Bộ, lúc đó trồng cói chỉ là một nghề phụ của nông dân xã viên. Nhận thức khả năng phát triển của nghề cói, Đảng bộ Hải Nam lãnh đạo nhân dân quyết tâm phát triển diện tích trồng cói, chế biến trồng cói, dệt chiếu thành một nguồn thu bổ sung quan trọng trong tổng giá trị của hợp tác xã. Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân đắp đê sông Sò, ngăn ngừa nước mặn để tận dụng diện tích trồng cói có năm đã đào đắp tới 249.000 m3 đê. Diện tích trồng cói ở Hải Nam ngày càng phát triển (1) kỹ thuật trồng cói chế biến cói ngày càng được phổ cập ở Hải Nam. Sản lượng cói ở Hải Nam bán cho nhà nước ngày một tăng (2). Hàng năm thu nhập nghề cói chiếm 10 % tổng thu nhập của hợp tác xã. Năm 1967 nhận được bằng khen của hội đồng Chính phủ và 5 lá cờ thi đua của huyện uỷ. Uỷ ban nhân dân huyện tặng xã dẫn đầu về diện tích và năng suất cây cói, có nhiều sản phẩm giao nộp cho nhà nước.

Nghề trồng cói thịnh hành, xuất hiện nghề thủ công nghiệp là dệt chiếu gia công cho nhà nước. Hàng năm Hải Nam có 80 lao động dệt chiếu số lượng 1.000 lá chiếu. Đi đôi với nghề trồng cói dệt chiếu Hải Nam còn có nghề phụ khác đi đôi với gạch, ngói trồng dâu, nuôi tằm, giá trị thủ công nghiệp chiếm tới 25% tổng giá trị của hợp tác xã Nam Sơn. Trong những năm chiến tranh phá hoại. Đảng bộ Hải Nam đã lãnh đạo nhân dân hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước. Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân ổn định. Đảng bộ và nhân dân Hải Nam đã hoàn thành tốt việc đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Về chỉ tiêu tuyển quân Hải Nam qua các năm đều vượt với khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” Đảng bộ và nhân dân Hải Nam hết lòng hết sức đóng góp cho sự nghiệp cách mạng. Năm 1967 Đảng bộ và nhân dân Hải Nam vinh dự được nhận bằng khen của chính phủ về thành tích chi viện đắc lực cho tiền tuyến. Mặc dù vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, Đảng bộ luôn luôn quan tâm đến mọi hoạt động của địa phương. Bom đạn của giặc Mỹ có thể đe doạ đến sự sống của con người nhưng phong trào văn nghệ quần chúng “Tiếng hát át tiếng bom” lại rầm rộ hơn bao giờ hết, không khí lạc quan tin tưởng tràn ngập thôn xóm. Trong khói lửa của chiến tranh phá hoại, ngành giáo dục phổ thông vẫn phát triển. Nhân dân đã đóng góp tre, gỗ, công sức làm nán  học và hầm hào trú ẩn cho con em mình tới lớp. Học sinh đi học thì có túi thuốc cá nhân và mang “mũ rơm đi học đường dài” phong trào noi gương Bắc Lý và Cẩm Bình cũng được phát động có chất lượng cao trong trường phổ thông. Năm 1969 trường phổ thông cấp II có 11 lớp với 483 học sinh, học sinh vỡ lòng và mẫu giáo là 680 cháu. Những năm đó cứ 10 người dân Hải Nam thì có 4 người đi học. Riêng năm 1969 trường phổ thông Hải Nam được công nhận là trường tiên tiến của huyện. Ngành y tế Hải Nam cũng đạt được những thành tích trong chiến tranh về công tác chăm sóc, bảo vệ nhân dân, mạng lưới y tế phát triển rộng khắp xuống các thôn xóm, hàng năm có tới 1.500 người khám và chữa bệnh tại trạm xá. Trong những năm chiến tranh phá hoại nhiều công trình công cộng được xây dựng như: trụ sở UBND xã, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, mẫu giáo v.v.. Trong những năm phá hoại của đế quốc Mỹ đời sống nhân dân Hải Nam vẫn được ổn định và từng bước có được cải thiện, trật tự an ninh xã hội được đảm bảo an toàn. Ngay trong khói lửa của chiến tranh sản xuất vẫn phát triển, đây là một thực tế sinh động của đường lối phát triển kinh tế trong chiến tranh của Đảng ta được Đảng bộ Hải Nam vận dụng sáng tạo vào địa phương mình.

Trong quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đảng bộ Hải Nam ngày càng trưởng thành. Năm 1964 Đảng bộ Hải Nam có 5 chi bộ với 103 đảng viên, đến năm 1972 Đảng bộ Hải Nam đã phát triển với 5 chi bộ và 179 đảng viên. Trong quá trình tôi luyện của lò lửa cách mạng, Đảng bộ ngày càng tỏ rõ năng lực tổ chức và lãnh đạo của mình. Đảng viên được rèn luyện trong tổ chức và chiến đấu. Trong phong trào cách mạng đã nâng cao lập trường, ý thức giác ngộ và năng lực lãnh đạo của mình. Đảng bộ Hải Nam được huyện Đảng bộ công nhận là Đảng bộ “4 tốt” từ năm 1976. Đảng bộ Hải Nam, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị đã đặc biệt quan tâm lãnh đạo đoàn thanh niên. Đảng bộ đã xây dựng rèn luyện, bồi dưỡng cho lực lượng trẻ, thực sự coi đó là đội hậu bị và cánh tay đắc lực của Đảng bộ, Đoàn thanh niên lao động xã Hải Nam trong những năm chống Mỹ cứu nước đã cùng với thanh niên cả nước dấy lên phong trào thi đua “ba sẵn sàng” rất sôi nổi và thực sự cuốn hút đông đảo lực lượng thanh niên, đoàn thanh niên ở Hải Nam đã hăng say lao động sản xuất chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Đoàn viên và thanh niên đã thực sự đi đầu trong phong trào tiếp thu và áp dụng khoa học kỹ thuật mới, đấu tranh chống các lề lối canh tác lạc hậu, đồng thời sôi nổi tham gia phong trào học tập văn hóa, cho nên năm 1979 xã Hải Nam đã phổ cập hết cấp I cho toàn dân và hết cấp II cho cán bộ. Đoàn viên và thanh niên đã hăng hái xung phong đến những nơi ác liệt nhất. Đoàn thanh niên thực sự là mũi nhọn trong suốt mọi lĩnh vực, nhiều lớp thanh niên đã nô nức lên đường cầm súng giết giặc trên mọi chiến trường. Cũng  trong phong trào cách mạng ấy đoàn viên ưu tú đã được hưởng ứng trong đội ngũ của những người cộng sản.

Trong những năm chống Mỹ cứu nước, đặc biệt trong thời gian chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, phong trào phụ nữ ở Hải Nam đã phát triển mạnh mẽ và thu được nhiều thành tích rực rỡ. Trong sản xuất, phong trào “3 đảm đang của phụ nữ” đã vươn lên làm chủ đồng ruộng, cầm cày, bừa thay nam giới lên đường giết giặc, tham gia dân quân du kích với số lượng tới 500 người, nhiều chị em đã trực tiếp tham gia chiến đấu tại quê hương. Nhiều chị em gia nhập thanh niên xung phong, gia nhập quân đội. Phong trào “ba đảm đang” của phụ nữ Hải Nam phát triển tốt, phụ nữ Hải Nam trong những năm chống Mỹ đã tỏ rõ những phẩm chất năng lực của mình trong mọi lĩnh vực hoạt động. Nhiều chị em đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng trong đó có một số chị em là cấp uỷ viên. Phụ nữ Hải Nam còn tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tỷ lệ phụ nữ trong ban quản lý hợp tác xã nông nghiệp, trong hội đồng nhân dân xã ngày càng cao. Trong thời gian chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Hải Nam vẫn giành được những thắng lợi to lớn. Sản xuất vẫn phát triển dưới tầm bom đạn của địch. Đời sống nhân dân vẫn ổn định và từng bước được nâng lên. Hải Nam đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước, đóng góp sức người, sức của trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần vào thắng lợi chung của cả dân tộc sau khi Mỹ bắt buộc phải ký kết ở Việt Nam vào ngày 27 tháng giêng năm 1973. Đảng bộ và nhân dân Hải Nam đã bước vào thời kỳ mới: Thời kỳ khôi phục phát triển kinh tế, dồn sức chi viện cho cách mạng miền Nam giành thắng lợi hoàn toàn.

II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DỐC SỨC CHI VIỆN CHO CÁCH MẠNG MIỀN NAM THẮNG LỢI HOÀN TOÀN (1973 -1975):

Sau khi hiệp định Pari về Việt Nam được ký kết, miền Bắc nước ra đã có hoà bình, Đảng ta chủ trương nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ra sức chi viện cho miền Nam hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà. Trong những năm 1973 -1975 Đảng bộ và nhân dân Hải Nam đã giành được những thắng lợi lớn lao. Trong thời gian đó đặc điểm nổi bật của Hải Nam là toàn Đảng, toàn dân nô nức phong trào tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đảng bộ Hải Nam nghiêm chỉnh thực hiện nghị quyết đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Trước kia Hải Nam có ba hợp tác xã  ở ba thôn, năm 1974 Hải Nam hợp nhất ba hợp tác xã làm một lấy tên là hợp tác xã nông nghiệp Nam Sơn. Việc hợp nhất các hợp tác xã là một đòi hỏi khách quan, hợp quy luật. Sau khi quan hệ sản xuất phát triển Hải Nam càng có điều kiện đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, được sự giúp đỡ của nhà nước, Hải Nam đã đầu tư hàng triệu đồng, hàng vạn ngày công để xây dựng hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi. Năm 1975 Hải Nam đã có 6 con mương cấp II, 9 con mương cấp III và 182 cống đảm bảo tưới tiêu nước cho 200 ha gieo trồng. Hải Nam đã căn bản giải quyết được nạn úng lụt, hạn hán. Bên cạnh việc hoàn thành các công trình thuỷ lợi, Đảng bộ Hải Nam còn lãnh đạo nhân dân tăng cường nguồn phân hữu cơ để cải tạo đồng ruộng. Đảng bộ Hải Nam đã kiên quyết đưa giống lúa mới VN 10, NN8 vào đồng ruộng. Do quan hệ sản xuất phát triển, do đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, năng suất lúa của đồng ruộng Hải Nam ngày càng tăng Hải Nam liên tục trong nhiều năm đạt 5 tấn lúa./ ha. Nhằm đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính năm 1982 -1983 Hải Nam đã tập trung chăn nuôi lợn trong hai trại chăn nuôi, một trại lợn thịt, một trại lợn giống: Đàn lợn tập thể và xã viên Hải Nam hàng năm đạt trên 2 nghìn con. Nghề cói ở Hải Nam cũng phát triển tốt trong những năm đó. Do sản xuất phát triển, Hải Nam đã hoàn thành tốt nghĩa vụ đóng góp với nhà nước năm 1973 Hải Nam đóng góp cho nhà nước 284 tấn thóc, 33.5 tấn thịt lợn. Năm 1974 Hải Nam đóng góp cho nhà nước 526 tấn lương thực, 28.5 tấn thịt lợn. Đây là những năm Hải Nam đã đóng góp nhiều sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong những năm 1973 -1975 thanh niên Hải Nam đã nô nức lên đường cầm súng đánh giặc, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc, riêng năm 1975, 78 thanh niên Hải Nam đã nhập ngũ, hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân.

Sản xuất phát triển, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân Hải Nam ngày càng ổn định và nâng cao. Bình quân thóc ăn hàng tháng của nhân dân Hải Nam từ 15 đến 20 kg/ 1 đầu người. Đời sống tinh thần của nhân dân Hải Nam ngày càng phong phú. Sinh hoạt trong các gia đình nông thôn Hải Nam ngày càng đổi mới. Trong các gia đình, ba công trình vệ sinh ngày càng hoàn chỉnh. Bộ mặt nông thôn Hải Nam ngày càng đổi mới. Nhân dân đã bỏ ra hàng vạn ngày công đắp đường liên thôn liên xã và trồng cây ven đường.

Những thắng lợi mà nhân dân Hải Nam đạt được, có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản đó là sự lãnh đạo của Đảng bộ và cũng trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ Hải Nam cũng ngày càng trưởng thành thực hiện nhiệm vụ chính trị. Đảng bộ đã phân công trách nhiệm cho từng đảng viên, từng cấp uỷ Đảng. Trong lãnh đạo rèn luyện phẩm chất chính trị, năng lực của đảng viên ngày càng nâng cao.

Trong thắng lợi vĩ đại của dân tộc 1975, Đảng bộ và nhân dân Hải Nam đã góp phần xứng đáng. Trong 10 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, 630 thanh niên Hải Nam, trong đó có 270 nữ gia nhập quân đội trên các chiến trường. Thanh niên Hải Nam đã tỏ ra xứng đáng với truyền thống của quê hương. Những người mẹ, người vợ lần lượt tiễn đưa chồng, con lên đường giết giặc với niềm tin yêu, tự hào và tinh thần hy sinh cao cả. Hải Nam có 173 gia đình có hai con nhập ngũ, 42 gia đình có ba con, ba gia đình có 4 con nhập ngũ và đặc biệt là gia đình ông Trần Văn Thẩm có 5 con nhập ngũ. Trong 10 năm chống Mỹ, Đảng bộ và nhân dân Hải Nam đã đóng góp cho cuộc kháng chiến 800 tấn lương thực, hơn 400 tấn thực phẩm và 475 lá chiếu, 872 tấn cói. Sự đóng góp lớn lao về sức người, sức của của Đảng bộ và nhân dân Hải Nam bắt nguồn từ lòng yêu quê hương, đất nước nồng nàn, bắt nguồn từ quyết tâm tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, bắt nguồn từ sức mạnh khối đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, sự đóng góp lớn lao ấy còn bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ Hải Nam.  Từ sự quan tâm sâu sắc, chỉ đạo giúp đỡ của Đảng bộ cấp trên và của Đảng bộ và nhân dân các xã bạn.

Chương V: Phấn khởi, tin tưởng vững bước tiến lên xây dựng XHCN và bảo vệ tổ quốc, góp phần đánh thắng chiến tranh biên giới (1976 - 1986)

 

CHƯƠNG V
PHẤN KHỞI, TIN TƯỞNG VỮNG BƯỚC TIẾN LÊN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC,
GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI
(1976-1985)

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã toàn thắng , kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi oanh liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mở ra một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến đấu giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc bắt đầu từ cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945, chấm dứt ách thống trị hơn 1 thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc trên đất nước ta, làm cho tổ quốc ta độc lập, thống nhất và cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đảng bộ Hải Nam quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, nNhị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ nhất, Nghị quyết Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ lần thứ 13, Đại hội Đảng bộ Hải Nam lần thứ 15 đề ra những nhiệm vụ cụ thể là: Ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ vững chắc làm ra nhiều lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, tăng nhanh tích luỹ vốn, dần dần từng bước nâng cao và cải thiện đời sống nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước.

Trong lúc nhân dân cả nước đang ra sức tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và lao động sản xuất vừa hàn gắn vết thương chiến tranh và bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ II. Cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước nói chung, xã Hải Nam nói riêng có tư tưởng hoà bình nghỉ ngơi thì tháng 8 năm 1977 bọn bành trướng bá quyền Trung Quốc vào biên giới phía Nam nước ta. Sau đó chúng lại tiếp tục xâm lấn biên giới phía Bắc (ngày 17 tháng 2 năm 1979) chúng gây cản trở rất lớn cho việc sản xuất và hàn gắn vết thương chiến tranh. Trước tình hình ấy, nghị quyết của ban chấp hành trung ương Đảng chỉ rõ: Đây là kẻ thù mới rất nguy hiểm của nhân dân ta và chuyển từ hoà bình sang vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh: Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đi vào thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Chấp hành nghị quyết của trung ương Đảng, quán triệt tinh thần nghị quyết của tỉnh và của huyện, Đảng bộ và nhân dân Hải Nam quyết tâm hoàn thành thắng lợi hai nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Đảng bộ và nhân dân Hải Nam đã tập trung sức người đầu tư tiền vốn, vật tư vào mặt trận nông nghiệp phấn đấu đưa năng suất trên toàn bộ diện tích cây trồng đạt 85 tạ 42 năm 1976 đưa lên 10 tấn ha của những năm sau, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân tăng tích luỹ vốn cho hợp tác xã và hoàn thành nghĩa vụ cho nhà nước.

Đảng bộ Hải Nam đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng: Quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật, văn hóa và tư tưởng, lấy cách mạng khoa học kỹ thuật làm then chốt. Hai năm xác định thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu, nên những năm qua phát huy những công trình thuỷ nông của mấy năm trước là tưới tiêu riêng biệt qua thực tế trên đồng ruộng Hải Nam là phải tưới tiêu kết hợp. Thực hiện biện pháp thuỷ lợi nói trên xã Hải Nam đã đi vào tu bổ xây dựng các cầu cống lớn, tôn cao bờ vùng, tạm nạo vét mương máng, củng cố kiện toàn tổ tưới tiêu từ đội sản xuất đến hợp tác xã, trang bị ba máy bơm nước để chống hạn và chống úng.

Phân bón là cơ sở, Hải Nam đã thực hiện mỗi đội sản xuất và trại chăn nuôi tập thể có một nhà ủ phân phát động mạnh mẽ phong trào làm phân bón, thực hiện nhà nhà làm bèo, người người thả bèo dâu. Mỗi hiệu “rừng điền thanh”  cho vụ mùa “biển bèo dâu, núi phân bùn” cho vụ chiêm xuân đạt kết quả qua các năm đều đạt 100 % diện tích bèo dâu, ba khối phân bùn 120 gánh phân chuồng cho một mẫu bắc bộ.

Đảng bộ Hải Nam xác định giống là tiền đề đã lãnh đạo loại bỏ giống cũ, năng suất thấp lựa chọn giống mới có năng suất cao phù hợp với đồng ruộng Hải Nam như giống “VN10” cho vụ chiêm và mộc tuyền thuần chủng cho vụ mùa, xây dựng đội sản xuất giống. Thực hiện cấy theo lối mới “Đi ngang bước chéo” lấy sấp đâm ngửa cấy dầy vừa phải, chăng dây thẳng hàng theo đúng kỹ thuật đã tập huấn. Đảng bộ đã quan tâm lãnh đạo, xây dựng đội phòng trừ từ đội sản xuất đến hợp tác xã, trang bị đầy đủ bình bơm, dụng cụ nên mấy năm qua, mặc dầu sâu bệnh trên đồng ruộng Hải Nam diễn ra rất ác liệt, nhưng với khẩu hiệu “cứu lúa như cứu hoả” Đảng bộ đã phát động phong trào, toàn Đảng, toàn dân diệt sâu như diệt giặc nên giàn lúa của Hải Nam vẫn phát triển. Tuy nhiên do sâu bệnh gây tác hại nhưng nhờ biện pháp tích cực phòng trừ nên có thiệt hại nhưng không đáng kể.

Đi đôi với những biện pháp trên, Đảng bộ vẫn coi trọng khâu làm đất. Đã có biện pháp để duy trì đàn trâu bò sẵn có và hàng năm mua thêm đảm bảo khâu thời vụ thực hiện “ba thứ quân” sức trâu, sức người và máy. Từng bước thực hiện đưa cơ giới vào nông nghiệp nâng khâu làm đất chiếm 40 – 50 % cho nên vừa qua xã Hải Nam đã mua 2 máy công nông và một máy cày để chủ động khâu thời vụ.

Do mạnh dạn áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, đầu tư sức người và vật tư tiền vốn nên mấy năm qua Hải Nam năng suất vẫn đi lên huyện đã tổ chức hội nghị đầu bờ tham quan giàn lúa VN10 tốt và thuần chủng để rút kinh nghiệm.

Năng suất qua các năm:

Năm 1976 đạt 85.62 tạ; năm 1977 đạt 70.08 tạ; năm 1978 đạt 50.8 tạ; năm 1979 đạt 56.29 tạ; năm 1980 đạt 61.26 tạ.

Trong mấy năm qua có những năm năng suất đạt thấp là do:

Lãnh đạo về thưởng phạt chưa nghiêm minh. Thời tiết diễn biến ác liệt như bão, lụt, rét, sâu bệnh phá hoại. Về cơ chế quản lý chưa phù hợp với cách phân phối theo định lượng. Nhất là từ năm 1980 thực hiện chỉ thị 100 của ban bí thư trung ương Đảng. Khóan sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Chấp hành nghị quyết của Huyện uỷ. Đảng bộ đã đề ra: Lấy đội sản xuất số 3 thuộc chi bộ ba làm điểm khóan sản phẩm cuối cùng đến người lao động qua một vụ làm thử đạt kết quả vượt sản lượng khóan 100.000 kg. Tổng số hộ nhận ruộng là 72 trong đó có 64 hộ vượt, 3 hộ đạt, 5 hộ hụt (184 kg). Từ đó Đảng bộ đã rút ra bài học kinh nghiệm: Ta đã phát huy quyền làm chủ tập thể của xã viên. Tinh thần đoàn kết gắn bó giữa cán bộ và xã viên tốt hơn trước. Thực hiện phân bổ, tận dụng lao động, điều hoà công điểm, giảm ngày trời, bảo đảm kỹ thuật, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng sản phẩm và nâng cao đời sống xã viên. Những kinh nghiệm trên đây đã được tỉnh, huyện và các ban ngành của trung ương tổng kết hội nghị đã đi đến kết luận, cách lãnh đạo của Đảng bộ và cách làm của đơn vị sản xuất số ba như vậy là được.

Tháng 3 /1981 xã Hải Nam có vinh dự được lên tỉnh báo cáo về chỉ đạo và thực hiện đạt kết quả tốt rút ra các bài học kinh nghiệm. Đồng chí Mai Bằng Cử-Bí thư Đảng bộ xã đã thay mặt Đảng bộ và nhân dân xã Hải Nam lên báo cáo đồng chí Trường Chinh - Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Được đồng chí Tạ Hồng Thanh-Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam Ninh về thăm động viên và cổ vũ phong trào. Chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương Đảng chỉ rõ Đảng bộ và nhân dân Hải Nam liên tục trong những năm qua đạt năng suất cao.

 Cuối năm 1980 Đảng bộ phát động các đội sản xuất trong toàn xã đi vào khóan sản phẩm cuối cùng đến người lao động với khí thế hào hùng phấn khởi tin tưởng. Được chỉ thị 100 của ban bí thư trung ương Đảng chỉ rõ, Đảng bộ và nhân dân Hải Nam thực hiện trong những năm qua liên tục đạt năng suất cao, năm 1982 xã Hải Nam được Bộ nông nghiệp tặng lá cờ là xã nhiều năm có năng suất cao (1 trong 10 xã của huyện Hải Hậu). Năm 1981 đạt 80 tạ/ ha; năm 1982 đạt 95.60 tạ/ ha; năm 1983 đạt 95.73 tạ; năm 1984 đạt 94.95 tạ; năm 1985 đạt 89.75 tạ.

Ngoài cây lúa Đảng bộ Hải Nam tập trung chỉ đạo cây màu. Trong mấy năm qua tương đối toàn diện có hiệu quả kinh tế cao như: cây khoai nước, cây khoai tây, cây cà chua trên chân 2 vụ lúa. Cây khoai lang, su hào, cải bắp, cây ngô trên chân mạ mùa năm 1978, được huyện tổ chức “hội nghị đầu bờ” để rút kinh nghiệm.

Đi đôi với sản xuất nông nghiệp Hải Nam còn chú trọng thâm canh cây cói. Hàng năm Hải Nam đã đầu tư hàng vạn ngày công đắp bờ bối cải tạo đồng ruộng, diệt cỏ dại, làm bờ vùng, đầu tư phân bón, giống tốt, củng cố đội chuyên làm cói, mua sắm công cụ cải tiến. Mặc dầu tổng sản lượng có giảm nhưng năng suất vẫn đi lên, đảm bảo có nhiều nông sản hàng hóa bán cho nhà nước. Năm 1978 được tỉnh mở hội nghị đầu bờ để rút kinh nghiệm là một xã có diện tích năng suất và sản lượng lớn nhất của huyện Hải Hậu.

Thực hiện Nghị quyết 19 của Ban Chấp hành trung ương Đảng: Dần dần đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính. Đảng bộ Hải Nam trong mấy năm qua đã coi trọng chỉ đạo ngành chăn nuôi đại gia súc và gia cầm ở cả hai khu vực tập thể và gia đình xã viên. Củng cố cơ sở vật chất, lựa chọn giống lai tốt, đầu tư thức ăn, xây dựng đội thú y từ hợp tác xã đến đội sản xuất có đủ thuốc, hàng quý tổ chức tiêm phòng đề ra chế độ đối với con nái và con đực giống có chế độ khen thưởng kịp thời nên đàn lợn phát triển tăng cả về số lượng và trọng lượng xuất chuồng. Do tình hình cơ chế quản lý và phương thức sản xuất có thay đổi nên chăn nuôi tập thể cũng phải thay đổi từ chăn nuôi tập thể chuyển sang hình thức nuôi lợn gia công nên đàn lợn vẫn được duy trì về số lượng, trọng lượng xuất chuồng tăng. Ngoài chăn nuôi lợn Hải Nam còn phát triển chăn nuôi bò, nuôi vịt và nuôi cá. Kết quả thu nhập của ngành chăn nuôi chiếm 25 % tổng thu nhập của hợp tác xã nông nghiệp.

Trồng trọt, chăn nuôi được phát triển, Đảng bộ Hải Nam vẫn coi trọng phát triển ngành nghề tăng thu nhập cho hợp tác xã nâng cao đời sống xã viên có nhiều hàng hóa bán cho nhà nước như dệt chiếu, vê đay, in hấp, sản xuất vôi, gạch ngói, bốc vác, thuyền vận chuyển, quản lý thợ mộc, thợ nề, phát triển trồng ớt, trồng đay v.v..đưa tổng thu nhập của ngành nghề chiếm 30 % tổng thu nhập của hợp tác xã. Kết quả cụ thể: 110.000 lá chiếu, 2 triệu viên gạch, 800.000 viên ngói, 150 tấn vôi. Ngoài phát triển kinh tế tập thể, Đảng bộ Hải Nam đã đi vào lãnh đạo phát triển kinh tế phụ gia đình xã viên theo đúng hướng góp phần tăng thu nhập và nâng cao đời sống xã viên.

Song song với phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, Đảng bộ Hải Nam đã lãnh đạo củng cố ba ngọn cờ hồng ở nông thôn, nó là “chân kiềng, đòn xeo” hỗ trợ lẫn nhau đẩy mạnh sản xuất phục vụ đời sống, ổn định giá cả, lưu thông tiền tệ.

Mấy năm qua, Đảng bộ đã đi vào lãnh đạo củng cố tổ chức quản lý, tăng cường những cán bộ, đảng viên có năng lực, có trình độ quản lý, nên ba ngọn cờ hồng ở nông thôn vẫn được củng cố và phát triển. Phong trào thi đua đã xuất hiện những tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa trên 10 năm như: Đội 1, đội 2, đội 3, đội 4 và đội 9. Đó là những nhân tố thúc đẩy phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đang trên đà đi lên, giữ vững là những đơn vị tiên tiến.

Phong trào lao động sản xuất được đẩy mạnh, về mặt phúc lợi cũng được quan tâm đầu tư. Nhiều công trình công cộng được xây dựng như: Trường phổ thông cơ sở, nhà mẫu giáo, nhà giữ trẻ, nhà văn hóa và nhà kho, sân phơi, cầu cống, các tuyến đường trục, đường liên thôn, liên đội được mở rộng và cải tạo.

Mặc dù những năm qua có nhiều khó khăn về vật tư, tiền vốn, nguyên vật liệu nhưng sản xuất vẫn phát triển, đời sống nhân dân Hải Nam vẫn được ổn định có mặt được cải thiện. Mức ăn cộng màu là 22.1 kg/tháng cho một đầu người, về nhà cửa 95 % được sửa sang lại trong đó có 72 % nhà gạch hoặc mái bằng, việc đi lại học hành khám chữa bệnh, giải trí, nghe đài, đọc sách báo, xem phim… Đang trên đà đi lên con người mới nên đã có 2/3 số gia đình được cấp giấy công nhận là gia đình văn hóa mới.

Sau khi bọn bành trướng bá quyền Trung Quốc ồ ạt đưa 60.000 quân vào nước ta. Ban Chấp hành trung ương Đảng đã chỉ rõ, âm mưu thâm độc và ý đồ gây tác hại của chiến tranh biên giới, xác định kẻ thù và nhiệm vụ cụ thể của toàn Đảng và toàn dân. Đảng bộ Hải Nam giáo dục cho thanh niên sẵn sàng lên đường cầm súng bảo vệ Tổ quốc phát huy truyền thống của quê hương, gia đình lớp lớp thanh niên hàng năm lên đường nhập ngũ đảm bảo chính sách, số lượng vượt, đạt chất lượng cao giữ vững truyền thống là xã giao quân trong 2 thời kỳ kháng chiến chỉ có đủ và vượt không bao giờ thiếu. Công tác an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn được giữ vững.

* Kết quả chi viện qua các năm: Năm 1976 giao 78 quân; năm 1977 giao 74 quân; năm 1978 giao 237 quân; năm 1979 giao 72 quân; năm 1980 giao 45 quân; năm 1981 giao 42 quân; năm 1982 giao 70 quân; năm 1983 giao 71 quân; năm 1984 giao 73 quân; năm 1985 giao 75 quân.

Trong lúc thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược, Đảng bộ Hải Nam vẫn quan tâm đến việc xây dựng củng cố các đoàn thể quần chúng và các ban ngành trong toàn xã ngang tầm với nhiệm vụ chính trị. Hải Nam là một xã có truyền thống hiếu học, trong mấy năm qua Đảng bộ và nhân dân Hải Nam tập trung xây dựng cơ sở vật chất các ngành học trong xã: Phổ thông, bổ túc, mẫu giáo, nhà đọc sách, thư viện, phòng thí nghiệm, phương tiện đồ dùng giảng dạy (bảng, bàn, ghế). Trong trường học có phong trào thi đua với Cẩm Bình “Dạy tốt, học tốt” đang trên đà phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đến nay cứ 10 người dân có 4 người đi học, một truyền thống hiếu học. Ngày nay con em xã Hải Nam đã có: 84 người học hết trung học, 77 người học xong đại học, 4 trên đại học, trường phổ thông cơ sở có 35 lớp gồm 1.389 cháu, lớp mẫu giáo có 12 gồm 650 cháu, bổ túc văn hóa có ba lớp trên 100 người học, số em học cấp ba 125.

Ngành y tế Hải Nam trong những năm qua, cũng có bước trưởng thành về nhiều mặt nhất là công tác tổ chức, củng cố mạng lưới y tế viên xuống tận đội sản xuất, và có phân cấp quản lý rõ ràng. Cán bộ trong trạm được nâng cao về chuyên môn thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Lương y như từ mẫu”, sửa sang cơ sở vật chất, mua sắm y cụ để phục vụ nhân dân như khám bệnh và điều trị tốt. Đặc biệt đã dập tắt được những vụ dịch trong xã xảy ra. Thực hiện phong trào sinh đẻ có kế hoạch đạt kết quả cao hàng năm đạt chỉ tiêu huyện giao từ 3 % năm 1975 đến nay xuống 1.9% năm 1986. Ngoài việc chuyên môn trạm còn trồng cây chế biến thuốc nam và xây dựng 2 quầy thuốc đông, tây y. Trạm xá xã Hải Nam đang trên đà đi lên để đáp ứng với nhiệm vụ thời gian tới.

Trong quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện 2 nhiệm vụ chính trị, Đảng bộ Hải Nam luôn luôn quan tâm đến việc học tập lý luận chủ nghĩa Mác-Lê Nin cho cán bộ đảng viên, đến nay cấp uỷ đảng đi học trường đảng tỉnh 15 đồng chí, trường đảng huyện 91 đồng chí, đảng viên mở lớp tại xã 27 đồng chí sau một năm học tập thi kiểm tra 100 % từ đạt yêu cầu đến khá. Mấy năm qua Đảng bộ Hải Nam đang đi lên về chất lượng và về số lượng, có quan điểm lập trường kiên định, tính đảng và tính tiền phong gương mẫu. Đến ngày 3 tháng 6 năm 1980 Đảng bộ Hải Nam được phát thẻ đợt I là 174 chiếm 79 %. Qua việc rèn luyện và học tập về phẩm chất, nâng cao về tổ chức không ngừng phát triển Đảng, đến năm 1986 Đảng bộ có 378 đảng viên trên 10 năm chiến đấu với đồng ruộng.

Đảng bộ Hải Nam vẫn vững vàng đi lên, là Đảng bộ “4 tốt” từ năm 1967 đến nay.

Trong quá trình Đảng bộ đi lên cả về phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, qua quá trình ấy lửa thử vàng thì cũng còn một số ít đảng viên thóai hóa biến chất, phải thi hành kỷ luật đưa ra khỏi hàng ngũ của Đảng là 15 (khai trừ về tham ô 7 lưu đảng 7 về đạo đức, 1 cảnh cáo về nguyên tắc Đảng. Tỷ lệ bị xa thải là 0.4 % so với tổng số đảng viên).

Số đảng viên qua các năm:

Năm 1986 có 238 đảng viên

Năm 1981 có 318 đảng viên

Năm 1977 có 2454 đảng viên

Năm 1982 có 322 đảng viên

Năm 1978 có 2564 đảng viên

Năm 1983 có 345 đảng viên

Năm 1979 có 264 đảng viên

Năm 1984 có 345 đảng viên

Năm 1980 có 292 đảng viên

Năm 1985 có 355 đảng viên

Trong mấy năm qua, Đảng bộ Hải Nam luôn luôn quan tâm giáo dục, bồi dưỡng thế hệ thanh niên hiểu biết về đoàn, giáo dục về truyền thống dân tộc, quê hương và truyền thống gia đình nên những năm qua đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh xã Hải Nam vẫn phát huy được truyền thống trong những năm chiến tranh, gương mẫu đi đầu trong các phong trào “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”; “Phong trào ba xung kích làm chủ tập thể”; phong trào “ba khoan”cũng được phát triển sôi nổi trong hàng ngũ cán bộ đoàn viên thanh niên. Lực lượng thanh niên còn làm lòng cột trong tổ chức đội thuỷ lợi 202, tham gia đội làm cói, đội phòng trừ sâu bệnh. Phong trào nhận thửa ruộng cánh đồng cao sản được thực hiện rộng rãi. Phong trào thả bèo dâu làm phân bùn, chế biến phân được thanh niên đi đầu, thanh niên lên đường gia nhập quân đội, đi xây dựng vùng quê hương mới làm giàu cho Tổ quốc v.v...Trong những phong trào này, nhiều cán bộ đoàn viên đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng.

Trong phong trào thi đua của phụ nữ Hải Nam nói riêng và cả nước nói chung, Đảng bộ Hải Nam đã xác định lực lượng phụ nữ ở nông thôn là động lực chiếm 90 % trong tổng số lao động sản xuất. Đảng bộ có chủ trương phát động phong trào phụ nữ “Ba đảm đang” nuôi con khoẻ, dạy con ngoan và phát động phong trào xây dựng người phụ nữ mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc như Bác Hồ đã tặng phụ nữ Việt Nam 8 chữ vàng “Kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

Phụ nữ Hải Nam luôn luôn đi đầu trong mọi lĩnh vực công tác ở nông thôn, phong trào cấy chăng dây thẳng hàng, phong trào chắt chẻ cói, phong trào đi bộ đội cũng khá sôi nổi (có 275 chị em tham gia quân đội qua các đợt tuyển quân). Phong trào sinh đẻ có kế hoạch, phong trào chăn nuôi, gửi tiền tiết kiệm, phong trào đi xây dựng vùng kinh tế mới kể cả mấy năm có chiến tranh ác liệt cũng như trong xây dựng hoà bình được rèn luyện và thử thách đã có 54 chị em đứng trong hàng ngũ của Đảng, số chị em tham gia cấp uỷ, giữ cương vị lãnh đạo xã hội và quản lý kinh tế, đến nay đã có những cô giáo mẫu, những bà mẹ giỏi, phụ nữ Hải Nam thể hiện vững vàng trong chiến đấu, trưởng thành trong xây dựng và đang bước trên con đường xây dựng và trưởng thành người phụ nữ mới ở nông thôn xã hội chủ nghĩa.

Hơn 10 năm qua Đảng bộ Hải Nam đã lãnh đạo và thực hiện hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước kể cả lương thực,  thực phẩm, lên đường nhập ngũ và các nghĩa vụ khác. Kết quả 10 năm đạt được: 4.844 tấn lương thực;  497 tấn thực phẩm; 2.755 tấn sản phẩm cói chẻ và có 707 Thanh niên lên đường nhập ngũ.

 

CHƯƠNG VI
ĐẢNG BỘ HẢI NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG
(1986-2005)

I. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM  LẦN THỨ TƯ (1986-1990)

Quán triệt vận dụng nghị quyết đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, nghị quyết đại hội đại biểu đảng bộ huyện lần thứ 19, nghị quyết đại hội lần thứ 20 -21 của Đảng bộ xã, ba năm 1986 -1988 Đảng bộ và nhân dân xã Hải Nam đã tập trung sức thực hiện 4 chương trình kinh tế lớn: Chương trình lương thực, thực phẩm, chương trình hàng tiêu dùng, chương trình hàng xuất khẩu và chương trình dân số và lao động.

Thực hiện chương trình lương thực và thực phẩm Đảng bộ coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu phát huy thắng lợi của các năm trước quyết tâm tạo nên một bước nông nghiệp toàn diện thâm canh, chuyên canh với yêu cầu năng suất, chất lượng, hiệu quả. Mặc dầu trong 3 năm 1986-1987-1988 có nhiều khó khăn phức tạp thời tiết rét đậm rét kéo dài, sâu bệnh phá hoại. Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo nhân dân cứu lúa như cứu hoả, diệt sâu như diệt giặc nên đã tập trung đội phòng trừ sâu bệnh với các phương tiện bình bơm, nên đã đảm bảo được giàn lúa. Trong điều kiện vật tư tiền vốn gặp nhiều khó khăn nhưng Đảng bộ và nhân dân quyết tâm giương cao ngọn cờ thâm canh cây lúa nên 3 năm qua đã giành được thắng lợi cả 3 mặt diện tích 1.250 mẫu (462 ha) năng suất 1986 = 90.2 tạ. Năm 1987 là 86 tạ. Năm 1988 là 89 tạ sản lượng 1986 là 2.600 tấn. Năm 1987 là 2.400 tấn. Năm 1988 là 2.500 tấn. So với 3 năm trước năng suất và tổng sản lượng có giảm chỉ đạt 95.5 % nhưng Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân cấy lúa  tăng vụ trên chân mạ, 1 năm 2 mạ 1 rau màu nay chuyển thành 2 vụ mạ, 2 vụ lúa ngắn ngày đạt hiệu quả kinh tế cao, hàng năm tăng 158 tấn thóc, bù lại so với 3 năm trước vẫn tăng hơn mỗi năm 22 tấn.

Đảng bộ vận dụng tinh thần nghị quyết của đại hội chuyển cánh đồng cói sang nuôi tôm xuất khẩu và trồng lúa đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa tăng lương thực có hàng xuất khẩu. Đi đôi với cấy lúa màu trong 3 năm qua vẫn được phát triển nhất là cây cà chua, cây khoai nước. Sản xuất phát triển ngành chăn nuôi được đẩy mạnh, đàn trâu béo khoẻ 127 con, đàn lợn tăng nhanh cả số lượng và chất lượng nhất là đàn lợn lái và lai kinh tế. Tổng đàn lợn bình quân 4 thời điểm trong 3 năm là 23.000 con, trọng lượng xuất chuồng tăng bình quân 3 năm trước 56 kg trên con, nay tăng lên 61 kg trên con. Nhìn chung về mặt chăn nuôi số lượng và trọng lượng tăng nguyên nhân từ chăn nuôi tập thể và cá nhân nay chuyển sang nuôi gia công khóan cho xã viên còn gia cầm vẫn phát triển nhất là đàn vịt và cá. Mấy năm qua mô hình V-A-C đạt kết quả cao.

Công tác quản lý kinh tế được tăng cường điển hình một số định mức kinh tế kỹ thuật, thực hiện hạch toán kinh tế công khai, nhưng cơ chế  khóan theo chỉ thị 100 ngày càng bộc lộ những thiếu sót khuyết điểm tình trạng rong công phóng điểm còn nhiều, khê đọng sản phẩm nhiều và phổ biến. Nên Đảng bộ đã lãnh đạo chuyển sang cơ chế khóan đơn giá ngày công thanh toán gọn đây là một tiến bộ mới trong quản lý nông nghiệp tạo điều kiện đến vụ mùa năm 1988 đi vào thực hiện nghị quyết 10 của bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, tổ chức sắp xếp lại, lập phương án khóan hộ, chia ruộng theo nhân khẩu, hóa giá trâu bò, công cụ nhỏ giao ruộng cho xã viên. Đại hội xã viên kiện toàn bộ máy ban quản lý sản xuất phát triển làm nghĩa vụ đối với nhà nước và tập thể trong 3 năm thực đều hoàn thành lương thực 100% (450 tấn thóc, 50 tấn thịt lợn hơi, 350 lá chiếu, 80.000 viên ngói, 4 tấn tôm xuất khẩu, 2 triệu năm trăm ngàn đồng, hoàn thành mua công trái đợt 1 và 2 là 500.000 đồng). Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Nam Ninh lần thứ 4, Đảng bộ và nhân dân đã có nhiều cố gắng thực hiện chương trình dân số và lao động, các cấp các ngành từ xã đến cơ sở đội, tập trung tuyên truyền vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình, có chế độ đối với các đối tượng sinh đẻ có kế hoạch, cộng với sự giúp đỡ của ngành y tế trực tiếp là phòng y tế huyện đảm bảo an toàn về nghiệp vụ chuyên môn nên 3 năm qua đã đạt kết quả tốt tỷ lệ phát triển dân số năm 1986 là 2.2 %, năm 1987 là 2 %, năm 1988 là 1.7 % phong trào nhân dân đi xây dựng vùng kinh tế mới kết quả 25 hộ 48 lao động, 105 khẩu (trong đó có 5 đảng viên).

Sản xuất phát triển đời sống nhân dân từng bước được nâng lên, lương thực bình quân đầu người 520 kg thóc trên năm bình quân 16.6 kg/ tháng. Đường xá liên thôn, liên đội được cải tạo việc đi lại của nhân dân được thuận tiện. Sự nghiệp văn hóa giáo dục, y tế, truyền thanh, thể dục, thể thao được củng cố và phát triển.

Về mặt truyền thanh có bước phát triển góp phần vào việc tuyên truyền sâu rộng các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước. Cũng như các nghị quyết, quy chế của địa phương nhằm cổ vũ động viên nhân dân hăng hái tham gia sản xuất thực hành tiết kiệm đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện nghị quyết 14 của Bộ chính trị về cải cách giáo dục đã coi trọng cả số lượng và chất lượng, số lượng giữ vững bình quân cứ 10 người dân có 2 người đi học, về chất lượng hàng năm các khối lên lớp đạt 95 % nhất là số học sinh vào cấp 3.

Mạng lưới y tế có tiến bộ trong việc khám chữa bệnh, tiêm phòng 6 loại bệnh mùa hè cho trẻ em, phòng chống dịch chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân.

Tăng cường công tác an ninh quốc phòng. Đảng bộ thường xuyên giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng ra sức củng cố lực lượng dân quân, xây dựng đại hội dự bị động viên, trung đội an ninh quốc phòng, hàng năm tổ chức huấn luyện cho dân quân thực hiện chương trình của huyện đảm bảo chất lượng. Công tác giao quân hàng năm nhà đều vượt chỉ tiêu. Năm 1986 76 thanh niên; năm 1987 22 thanh niên; năm 1988 20 thanh niên nhập ngũ.

Thi hành Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam, thực hiện cuộc vận động xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong  sạch và vững mạnh,  đại hội Đảng bộ các khóa 20 -21 đã đề ra phải đưa công tác xây dựng Đảng lên ngang tầm nhiệm vụ cấp bách có tính chất quyết định để đưa phong trào đi lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới theo tinh thần ng hị quyết VI. Những kết quả đạt được trong 3 năm qua, thực hiện điều lệ Đảng, đại hội Đảng bộ lần thứ 21, từ ngày 16 -18 tháng 10 năm 1986 đã bầu ra ban chấp hành mới gồm 15 đồng chí phần đông là trẻ, khoẻ có trình độ năng lực so với những khóa trước. Đội ngũ cán bộ từng bước được đổi mới, bộ máy được sắp xếp gọn nhẹ và có hiệu lực, đội ngũ cán bộ gián tiếp của toàn xã đã giảm so với trước 7.1% riêng cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp đã giảm 30% so với cán bộ từ hợp tác xã đến đội.

Về mặt tư tưởng qua học tập nghị quyết Đại hội VI nghị quyết lần thứ 2 của Tỉnh Đảng bộ Hà Nam Ninh, nghị quyết đại hội lần thứ 18 của Đảng bộ huyện và các nghị quyết của ban chấp hành trung ương Đảng, bộ chính trị và ban bí thư nhận thức của Đảng viên được nâng lên, các cấp uỷ đều được dự lớp sơ cấp chính trị do huyện mở, lề lối làm việc của cấp uỷ được tiến bộ. Kết quả việc thực hiện cuộc vận động xây dựng Đảng chi bộ vững mạnh. Qua phân loại chi bộ vững mạnh đạt 72 %. Yếu kém 28 % trong tổng số 25 chi bộ.

-Số đảng viên 1986 là 378 đảng viên phấn đấu tốt = 49.3 %.

Phấn đấu chưa tốt là 193 đồng chí = 50.7 %.

-Năm 1987 là 394 đảng viên.

Phấn đấu tốt 201 đảng viên = 50.1 %.

Phấn đấu chưa tốt 193 đảng viên = 49.1 %.

-Năm 1988 là 402 đảng viên.

Phấn đấu tốt 206 đảng viên = 51 %.

Phấn đấu chưa tốt 196 đảng viên = 49 %.

Số đảng viên kết nạp 3 đồng chí.

Số đảng viên thóai hóa biến chất bị thi hành kỷ luật:

Về phẩm chất đạo đức khai trừ 4 đảng viên.

1 đảng viên xoá tên về trình độ quá thấp.

2 đảng viên rút vì hoàn cảnh khó khăn và hiểu biết về Đảng quá yếu.

Công tác xây dựng chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Từng bước được đổi mới, Đảng bộ lãnh đạo bầu cử hội đồng nhân dân xã đúng luật, đúng nguyên tắc, dân chủ, công khai, sau khi bầu cử đã lựa chọn bầu ra Uỷ ban nhân dân xã, trẻ khoẻ, có phẩm chất và năng lực, nên việc điều hành công việc bước đầu phát huy hiệu lực của chính quyền trên các mặt hành chính, kinh tế xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Công tác vận động quần chúng tiếp tục được tăng cường các tổ chức quần chúng đều được kiện toàn.

Được sự chỉ đạo của Huyện uỷ Hải Hậu và thường vụ Đảng uỷ xã Hải Nam, thể theo nguyện vọng tha thiết của các Cựu chiến binh. Ngày 20/9 /1990, thường vụ Đảng uỷ xã đã ra quyết định số 52/QĐ-ĐU, chỉ định 7 đồng chí vào Ban Chấp hành lâm thời hội Cựu chiến binh xã. Ngày 28 /9/ 1990 Đại hội Cựu chiến binh xã lần thứ nhất được tổ chức. Đại hội đã bầu ban chấp hành gồm 7 đồng chí; đồng chí Trung tá Nguyễn Bá Tung được bầu làm Chủ tịch hội. Số hội viên được kết nạp đợt đầu gồm 50 đồng chí (đại tá 2, trung tá 4, thiếu tá 8, đại uý 4, số còn lại 32 đồng chí gồm từ thượng uý, trung uý, thiếu uý, hạ sỹ quan và chiến sỹ). Tổ chức hội Cự chiến binh ra đời là một lực lượng nòng cốt đã được tôi luyện qua các cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc, nhiều đồng chí còn trẻ, hăng hái nhiệt tình; nhiều đồng chí đang giữ các cương vị công tác khác nhau ở địa phương được đảng bộ và nhân dân tin cậy.

Tuy mới thành lập nhưng hội Cựu chiến binh xã Hải Nam đã khẳng định vai trò vị trí của mình trong hoạt động chính trị - xã hội. hội đã có những đóng góp quan trọng trong công tác xây dựng đảng, xây dựng chính quyền và các phong trào: giữ gìn trật tự trị an, thực hiện chính sách hậu phương quân đội, thực hiện luật nghĩa vụ quân sự, việc làm tình nghĩa, giáo dục thanh thiếu niên; tổ chức sinh hoạt đều đặn và có nề nếp.

Hội nông dân Việt Nam tăng cường tuyên truyền giáo dục vận động nhân dân thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế chính trị xã hội đặc biệt nghị quyết 10 của Bộ chính trị. Quần chúng phấn khởi tin tưởng hăng hái lao động sản xuất, phát triển kinh tế gia đình làm tròn nghĩa vụ đối với tập thể và nhà nước. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Đảng bộ quan tâm giáo dục về phẩm chất, lý tưởng lối sống cách mạng cho thanh niên, động viên thanh niên hăng hái thực hiện nghĩa vụ quân sự, phát huy vai trò lực lượng xung kích trên mặt sản xuất hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương. Hội liên hiệp phụ nữ Đảng bộ lãnh đạo thực hiện cuộc vận động xây dựng người phụ nữ  mới bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Giáo dục động viên các tầng lớp phụ nữ tích cực trong phong trào lao động sản xuất, tham gia quản lý kinh tế, xã hội, thực hiện bình đẳng nam nữ, nuôi con khoẻ dạy con ngoan, đi đầu trong công tác sinh đẻ có kế hoạch.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong mấy năm qua đã đi vào tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, thực hiện đoàn kết toàn dân vận động gửi tiền tiết kiệm, mua công trái xây dựng Tổ quốc, tham gia xây dựng quỹ bảo thọ.

Nhìn lại 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1986 -1990) Đảng bộ và nhân dân Hải Nam đáng tự hào với phong trào không dừng lại mà vẫn tiếp tục có bước phát triển, trong điều kiện có những khó khăn chung với những khó khăn của cả nước. Những thắng lợi ấy đánh dấu một bước quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, với tinh thần đổi mới của đại hội VI và các nghị quyết của ban chấp hành Trung ương Đảng thì Đảng bộ Hải Nam còn phải phấn đấu quyết liệt mới vượt qua được những mặt yếu kém để vươn lên trong những giai đoạn tiếp theo.

II. ĐẢNG BỘ HẢI NAM LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KINH TẾ XÃ HỘI 5 NĂM 1991-1995

Trong 5 năm từ 1991 đến 1995, Đảng bộ Hải Nam đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực hiện Nghị quyết của 2 nhiệm kỳ Đại hội: Đại hội Đảng bộ xã Hải Nam lần thứ XXIII- nhiệm kỳ 1991-1994 và Đại hội lần thứ XXIV nhiệm 1994-1996. Ngày 22/5/1990, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 59-CT/TW về việc mở Đại hội các cấp. Trung ương chỉ đạo ở cấp huyện và cơ sở tổ chức đại hội làm 2 vòng. Ngày 19 tháng 3 năm 1991 Đại hội Đảng bộ xã Hải Nam lần thứ XXIII- nhiệm kỳ 1991-1994 (vòng 1) đã khai mạc. Trong 2 ngày, Đại hội đã đóng góp ý kiến, thảo luận và thông qua báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ vào dự thảo các văn kiện của Trung ương sẽ trình Đại hội VII của Đảng; bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXI gồm 7 Đại biểu chính thức và 1 dự khuyết dự. 

Từ ngày 24 đến 27/6/1991, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng long trọng khai mạc. Với chủ đề: Trí tuệ, đổi mới, dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, Đại hội đã tổng kết 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, đồng thời điều chỉnh bổ sung và phát triển đường lối đổi mới. Đại hội kêu gọi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đoàn kết vượt qua khủng hoảng kinh tế xã hội để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ văn minh.

Sau đại hội VII của Đảng, ngày 16/7/1991 Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị số 01-CT/TW và tiếp theo ngày 22/7 Trung ương ra thông tri số 01-TT/TW hướng dẫn mở đại hội Đảng các cấp (vòng 2 ).

Tháng 10 năm 1991, Đại hội Đảng bộ xã Hải Nam lần thứ XXIII(vòng 2) nhiệm kỳ 1991-1994 đã khai mạc. Theo hướng dẫn của Trung ương Đảng, các đại biểu dự đại hội vòng 1 thì nay tiếp tục là đại biểu đương nhiên ở vòng 2.

Đại hội đã bầu Ban chấp hành gồm 15 đồng chí. Đồng chí Đoàn Thọ Hiển được bầu làm Bí thư Đảng uỷ, đồng chí Lê Văn Nhuyên - Phó Bí thư Thường trực Đảng uỷ, đồng chí Trần Hưng Hiển - Phó Bí thư phụ trách khối chính quyền, đồng chí Trần Văn Đán - uỷ viên Ban Thường vụ Đảng uỷ- Phó Chủ nhiệm HTX Hồng Phong, đồng chí Trần Tiến Dũng -  uỷ viên Ban Thường vụ Đảng uỷ - phụ trách khối nội chính. Tháng 6 năm 1993 đồng chí Đoàn Thọ Hiển nghỉ công tác, đồng chí Lê Văn Nhuyên đảm nhiệm chức vụ Bí thư Đảng uỷ. Tháng 8 năm 1993, bổ sung đồng chí Trần Xuân Ruyến đảm nhiệm chức vụ Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ.      

Ngày 6/5/1994 theo hướng dẫn của Huyện uỷ, Đảng bộ Hải Nam đã tổ chức Đại hội lần thứ XXIV nhiệm 1994-1996. Số đảng viên được triệu tập là 467 đồng chí (trong đó có 2 dự bị). Khi bầu cử, số lượng đảng viên chính thức có mặt 363, vắng mặt 102 (trong đó có 47 đồng chí diện miễn sinh hoạt). Số lượng uỷ viên Ban chấp hành Đảng bộ được Đại hội biểu quyết là 15 người. Đại hội tiến hành bầu vòng đầu được 14 đồng chí. Ngày 26/5/1994, Ban chấp hành Đảng bộ họp phiên thứ nhất đã bầu đồng chí Lê Văn Nhuyên làm Bí thư Đảng uỷ, đồng chí Trần Xuân Ruyến đảm nhiệm chức vụ Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ, đồng chí Lê Đức Huy - uỷ viên Thường vụ. Ngày 28/7/1994,  Ban chấp hành Đảng bộ họp phiên thứ 2 đã bầu bổ sung đồng chí Vũ Cao Bàn - Chủ nhiệm HTX Hồng Phong và đồng chí Mai Khải Hoàn - Chủ nhiệm HTX Trà Trung vào Ban Thường vụ, đồng thời bầu bổ sung đồng chí Lê Đức Huy - uỷ viên Thường vụ đảm nhiệm chức vụ Phó Bí thư - Chủ tịch UBND xã.

Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXIII đã đề ra phương hướng chủ yếu trong 3 năm 1991-1994 là: Tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp, mở rộng ngành nghề, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp. Từng bước ổn định, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Tăng cường quản lý, khai thác sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật; ưu tiên cơ sở vật chất phục vụ thâm canh cây lúa, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, từng bước chuyển đổi và hoàn thiện cơ chế khóan mới theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ chính trị. Tăng cường quản lý kinh tế-xã hội, kiên quyết loại bỏ các tiêu cực, xây dựng nếp sống văn minh gia đình văn hóa mới. Thực hiện nghiêm mọi nghĩa vụ với nhà nước. Tăng cường quốc phòng an ninh. Giữ vững danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh, Chính quyền vững mạnh, các đoàn thể tiên tiến. Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXIV nhiệm 1994-1996 tiếp tục xác định sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm, giữ vững danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh, Chính quyền vững mạnh, các đoàn thể tiên tiến; đồng thời Đại hội đã quyết định các chỉ tiêu cơ bản: Giữ vững năng suất 120-125 tạ/ha, bình quân lương thực 600-650 kg/người/năm. Đàn lợn 3500-4000 con, trong đó lợn nái 700-1000 con, tổng sản lượng thịt lợn hơi 300 tấn/năm. Ngân sách xã thu thường xuyên trên 200 triệu đồng/năm. Tỉ lệ phát triển dân số năm 1994 là 1,6%; năm 1995 là 1,4%. Tăng cường Quốc phòng, An ninh. Xây dựng Đảng bộ ngày càng vững mạnh, Chính quyền giỏi toàn diện, các đoàn thể tiên tiến.

Ngay sau các Đại hội, Ban chấp hành Đảng bộ tiến hành thảo luận thông qua qui chế, xây dựng chương trình hoạt động toàn khóa, phân công uỷ viên Ban chấp hành phụ trách cơ sở và phụ trách từng lĩnh vực công tác, đoàn kết cán bộ đảng viên và nhân dân hiện thực hóa Nghị quyết vào cuộc sống.

Ngày 19/8/1991, mô hình CNXH kiểu tập trung quan liêu bao cấp ở Liên xô và các nước Đông Âu tan vỡ, bối cảnh Quốc tế không có lợi cho Chủ nghĩa xã hội, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, nước ta chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế. Trong hoàn cảnh đó, Đảng bộ và nhân dân Hải Nam vẫn kiên định con đường XHCN, đồng thời vận dụng  sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, đoàn kết, tự lực tự cường, năng động, từng bước thích ứng với cơ chế mới và đã giành những thắng lợi toàn diện về kinh tế - xã hội - an ninh - quốc phòng; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện.

Ngày 15/02/1992, UBND tỉnh Hà Nam Ninh ra Quyết định số 115; Huyện uỷ Hải Hậu ra Nghị quyết số 03 và UBND huyện ban hành Đề án số  68 nhằm điều chỉnh cơ chế khóan 10, tiếp tục đổi mới quản lý Hợp tác xã nông nghiệp. Nhà nước thống nhất thông qua HTX để giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định cho hộ xã viên.

Quá trình hoạt động của HTX nông nghiệp Nam Sơn về quy mô thì phù hợp với điều kiện xã hội hiện tại. Song thực tế còn nhiều bất cập: Trình độ quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ chưa cân xứng với quy mô HTX lớn, chưa phát huy được tiềm năng thế mạnh của cơ sở, tư tưởng cục bộ địa phương, tình trạng nợ, đọng sản phẩm kéo dài. Quỹ vốn HTX bị chiếm dụng ngày một tăng, sản xuất chậm phát triển. Căn cứ vào nội dung biên bản Đại hội đại biểu xã viên HTX nông nghiệp Nam Sơn ngày 06/5/1992 đề nghị của HĐND và kỳ họp thứ 10 khóa XIV ngày 22/5/1992, tờ trình của UBND xã ngày 22/5/1992, biên bản của hội nghị Đảng bộ ngày 16 / 5/ 1992, tờ trình của UBND huyện Hải Hậu ngày 22 / 5/ 1992 và 2 văn bản của Huyện uỷ Hải Hậu ngày 09 /6 /1992 và ngày 18 /6 /1992. Sau khi có ý kiến chỉ đạo cụ thể của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh. Ban kinh tế tỉnh uỷ có thông báo số 24/CV-KT ngày 26  /6 /1992 và quyết định số 56 / QĐ-UB ngày 01/7/1992 của UBND huyện Hải Hậu. HTX Nam Sơn được tổ chức lại thành 3 HTX nông nghiệp có con dấu và tư cách pháp nhân.

+ HTX nông nghiệp Trà Trung gồm 7 đội sản xuất số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 19 của HTX nông nghiệp Nam Sơn cũ.

+ HTX nông nghiệp Hùng Sơn gồm 7 đội gồm đội sản xuất số 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13 của HTX nông nghiệp Nam Sơn cũ.

+ HTX nông nghiệp Hồng Phong gồm 6 đội sản xuất là 14, 15, 16, 17, 18, 20 của HTX nông nghiệp Nam Sơn cũ.

Diện tích canh tác, nhân hộ khẩu lao động của 3 HTX mới thành lập được giữ nguyên hiện trạng theo đội sản xuất cũ.

Dưới sự lãnh đạo của BCH Đảng bộ, Đại hội đại biểu xã viên các HTX lần thứ nhất nhiệm kỳ 1992-1994 đã khẩn trương triển khai trong tháng 7/1992, kiện toàn ban quản trị, ban kiểm soát và cán bộ chuyên môn để tiếp tục quản lý điều hành kinh tế HTX. Mỗi xóm một đội sản xuất duy trì 1 đội trưởng để quản lý điều hành và làm công tác thanh toán với xã viên trong đội.

+ Đồng chí Mai Khải Hoàn nguyên phó Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Nam Sơn được bầu là Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Trà Trung.

+ Đồng chí Lê Văn Hào nguyên phó Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Nam Sơn được bầu là Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Hùng Sơn.

+ Đồng chí Vũ Cao Bàn nguyên Chủ nhiệm HTX Nam Sơn được bầu làm Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Hồng Phong.

Đây là một bước ngoặt đánh dấu sự thay đổi về công tác quản lý, về cách nghĩ, cách làm, thực sự phát huy thế mạnh, tiềm năng và tinh thần tự chủ của xã viên trong từng HTX.

Căn cứ vào nghị quyết Đảng bộ lần thứ 23, Đại hội các HTX nông nghiệp trên tinh thần dân chủ và quyết tâm cao của cán bộ và xã viên đã xây dựng nghị quyết tập trung vào 2 nội dung lớn.

- Xây dựng công trình điện.

- Cải tạo nâng cấp hệ thống đường trục thôn.

Qua các kỳ đại hội, phát huy được sức mạnh của lòng dân 2 công trình lớn từng bước được hoàn thành.

* Công trình điện:

+ HTX Trà Trung hoàn thành tháng 12/1992 với giá trị 197.283.495 đồng.

+ HTX Hùng Sơn hoàn thành tháng 4/1993 với giá trị là 151.229.469 đồng.

+ HTX Hồng Phong hoàn thành tháng 4/1994 với giá trị 363.631.038 đồng.

Ngày 14/7/1993, Quốc hội thông qua Luật đất đai; ngày 27/9/1993, Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất. Thực hiện Luật đất đai và Nghị định của Chính phủ, huyện và xã đã chỉ đạo giao hết đất nông nghiệp đang sử dụng cho hộ gia đình, trừ đất giao cho các tổ chức, đất chuyên dùng cho nhu cầu công ích của xã.

Thực hiện chủ trương trên, Đảng uỷ đã thành lập Ban chỉ đạo, đồng chí Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban, Chủ nhiệm các hợp tác xã làm Phó ban. Các chi bộ tiến hành sinh hoạt bàn biện pháp thực hiện. Hợp tác xã tiến hành điều tra nhân khẩu, đất đai, kiểm kê tài sản; đội sản xuất tổ chức xã viên học tập, bàn bạc dân chủ, công khai ở các đội sản xuất; tổ chức đại hội Đại biểu xã viên thông qua đề án, bàn bạc và biểu quyết tạo sự thống nhất từ trong Đảng ra đến nhân dân về việc giao ruộng sản xuất lâu dài cho hộ xã viên. Thực hiện Đề án 68, đất canh tác ở Hải Nam chia làm 2 loại: Đất giao khóan sử dụng lâu dài, đất dự trữ giao khóan ngắn hạn. Toàn xã với tổng diện tích đất trồng lúa 1.051 mẫu trong đó HTX quản lý 931.09 mẫu. Được chia làm 2 vòng:

- Vòng 1: 773.76 mẫu bằng 83 %, giao ổn định lâu dài cho khẩu nông nghiệp.

- Diện tích còn lại vòng 2 giao cho các HTX và UBND xã tổ chức đấu thầu.

Do đặc điểm của 3 HTX được tổ chức theo quy mô của 3 thôn nên bình quân diện tích giao ổn định bình quân khẩu khác nhau:

+ HTX Trà Trung 338 m2 / khẩu

+ HTX Hùng Sơn 414 m2 / khẩu

+ HTX Hồng Phong 396 m2 / khẩu

Cuối năm1993, các HTX nông nghiệp Hồng Phong, Hùng Sơn, Trà Trung tiến hành Đại hội nhiệm kỳ, triển khai khóan vốn quỹ cho Ban quản trị, quy định các quỹ thu thường xuyên gồm: công ích, phát triển sản xuất và quỹ quản lý. Ban quản trị HTX được kiện toàn tinh giản gồm có Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm, Kế toán và mỗi xóm có 1 Đội trưởng. Những năm 1991-1993 giá cả biến động, vật tư tiền vốn thiếu thốn, thời tiết diễn biến phức tạp, đầu vụ chiêm xuân thường rét đậm kéo dài làm ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp. Đứng trước thực tế đó, Đảng uỷ đã chỉ đạo các HTX tiếp tục cải tiến quản lý, hoàn thiện cơ chế khóan theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị , tích cực áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đồng thời các HTX cùng với xã viên đầu tư tu sửa công trình thuỷ nông, thuỷ lợi nội đồng, chủ động nguồn vật tư phân bón, thuốc trừ sâu đảm bảo chất lượng, hướng dẫn kỹ thuật kịp thời vụ, đảm bảo các vật tư tiền vốn phục vụ sản xuất. Do tác động tích cực của chính sách giao khóan ruộng sản xuất và những cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật nên năng suất lúa của Hải Nam năm 1991 giữ vững 88,5 tạ/ha, năm 1992 đạt 97,5 tạ/ha, năm 1993 đạt 105,3 tạ/ha. Năm 1994, vụ chiêm xuân dàn lúa IR-17494 bị nhiễm sâu đục thân nặng, các HTX đã chủ động vật tư và hướng dẫn kịp thời cho xã viên hạn chế thiệt hại. Năng suất lúa cả năm 1994 của HTX Hồng Phong đạt 110 tạ/ha, HTX Hùng Sơn đạt 106 tạ/ha, HTX Trà Trung đạt 104,5 tạ/ha. Từ vụ mùa năm 1995, thực hiện Hướng dẫn số 30 ngày 14/5/1995 của UBND huyện về điều chỉnh quỹ đất nông nghiệp còn để lại dự trữ khi thực hiện Đề án 68 cho phù hợp với Luật đất đai năm 1993.  Hợp tác xã đã thực hiện giao ruộng cho những khẩu phát sinh sau khi thực hiện Đề án 68. Đến tháng 12/1995 cơ bản đã hoàn thành việc điều chỉnh ruộng đất theo Hướng dẫn số 30 của UBND huyện và quyết định số 990 của UBND tỉnh chỉ để lại 5% quỹ đất công giao cho UBND xã quản lý để xây dựng ngân sách xã. Năm 1995, năng suất lúa bình quân toàn xã đạt 108,7tạ/ha. Mỗi năm xã viên đóng góp cho Nhà nước từ 60 đến trên 90 tấn thóc. Bình quân lương thực đầu người đạt 520kg/năm đã cơ bản giải quyết được vấn đề lương thực cho nhân dân địa phương và dành một phần để thúc đẩy chăn nuôi phát triển.

Cùng với thâm canh cây lúa, diện tích cây màu tiếp tục được giữ vững. Cây rau màu các loại được nhân dân tận dụng các gồ vườn cấy xen canh giữa cây rau, cây ngô, khoai; vụ xuân hè, vụ đông cấy xen canh trên chân ruộng  mạ và ruộng 2 lúa, tổng diện tích cây vụ đông toàn xã trong 5 năm đạt 88,5 mẫu (bình quân 29,5 mẫu/HTX/năm). Từ năm 1995, một số hộ xã viên mạnh dạn tăng diện tích cây màu trên chân ruộng 2 lúa, thực hiện thâm canh 3 vụ, thu hoạch từ cây màu hàng chục triệu đồng/hộ/năm.

Đi đôi với trồng trọt, lĩnh vực chăn nuôi được nhân dân quan tâm đầu tư đàn lợn nái sinh sản: Tổng đàn lợn hàng năm đạt 2870 con, trong đó lợn nái 919 con. Chăn nuôi gia cầm trong các gia đình phát triển mạnh, đàn gia cầm khoảng trên 9.000 con các loại như: gà công nghiệp, vịt, thỏ nhiều hộ nuôi quy mô vừa và nhỏ đã cho thu nhập cao.

Ngành nghề ở xã thời kỳ này bước đầu có sự phát triển dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp. Các phương tiện, công cụ phục vụ sản xuất của tư nhân đã bắt đầu xuất hiện như: máy tuốt lúa, máy xay sát, thuyền vận tải, máy cày nhỏ. Buôn bán dịch vụ phát triển ở khu trung tâm xã và một số hộ ven đường xã từng bước đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của sản xuất và đời sống nhân dân.

Kinh tế có sự tăng trưởng đã tạo điều kiện cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Đến năm 1995, bình quân lương thực 550 kg/ người/năm, 70% hộ có nhà xây mái ngói, mái bằng; bình quân 22 hộ có 1 xe máy, 18 hộ có 1 ti vi, số hộ nghèo giảm còn khoảng 14 %.

Những năm 1991-1995, kinh tế có chuyển biến mới nhưng việc chuyển đổi theo mô hình dịch vụ trong quản lý kinh tế của HTX còn lúng túng, chưa chủ động nguồn vật tư và giống cây trồng vật nuôi. Trong một bộ phận nông dân còn nặng tâm lý độc canh cây lúa, một số hộ xã viên khê đọng sản phẩm nhưng chậm được khắc phục. ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chậm phát triển, lao động thiếu việc làm lúc nông nhàn ngày một tăng.

Công tác kiến thiết xây dựng cơ bản trong 5 năm 1991-1995 tập trung đầu tư cho giáo dục, hệ thống điện, đường giao thông và thuỷ lợi. Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, tính đến cuối năm 1995 địa phương đã đầu tư gần 1 tỷ đồng  từ nguồn vốn của ngân sách xã, HTX và nhân dân đóng góp phục vụ công tác kiến thiết xây dựng cơ bản: Đầu tư 293.883.000 đồng xây sửa nhà trẻ,  phòng học trường Tiểu học, THCS. Đầu tư 176 triệu xây trạm Y Tế xã. Xây mới cầu, cống phục vụ sản xuất và dân sinh. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa  trong việc cưới, việc tang và lễ hội được chỉ đạo chặt chẽ. Các hiện tượng mê tín dị đoan và các hành vi lợi dụng tôn giáo bị phê phán. Đội ngũ cán bộ y tế được tăng cường, đa số các  xóm có 1 cán bộ y tế kiêm nhiệm, thường xuyên vận động nhân dân làm tốt công tác phòng bệnh, tiêm chủng mở rộng và công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình. Từ cuối năm 1992, Huyện uỷ đã ban hành và chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 05 về công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình, đối với đảng viên sinh con từ thứ 3 trở lên nếu không tự giác thực hiện biện pháp đình sản thì  phải đưa ra khỏi Đảng bằng các hình thức: Khai trừ, xóa, rút khỏi danh sách đảng viên. Thực hiện chỉ thị trên, Đảng uỷ đã tổ chức phổ biến tới toàn thể đảng viên trong Đảng bộ để cán bộ và đảng viên gương mẫu thực hiện đồng thời vận động nhân dân đồng tình hưởng ứng. Năm 1993, tỷ lệ phát triển dân số là 1,69%; tỷ lệ người sinh con thứ 3 trở lên là 23,5%. Đến cuối năm 1994, tỉ lệ phát triển dân số là 1,26% và đến năm 1995 là 1,37%, nhưng tỷ lệ người sinh con thứ 3 trở lên vẫn tăng là 23,8%.

Năm học 1992-1993, xã đã hoàn thành việc tách trường cấp 1 và cấp 2 thành trường Tiểu học và Trung học cơ sở.

Ngày 25/5/1993, Ban chấp hành Đảng bộ huyện ra Nghị quyết số 08-NQ/HU về 1 số nhiệm vụ giáo dục đào tạo, Phòng giáo dục xây dựng đề án phát triển giáo dục giai đoạn 1995- 2000. Thực hiện Nghị quyết của huyện, trong 5 năm từ 1991-1995 xã đã đầu tư gần 300 triệu đồng để xây sửa, mua sắm bàn ghế cho các ngành học, chất lượng giáo dục được giữ vững. Tuy vậy, cơ sở vật chất các ngành học chưa đáp ứng yêu cầu, học sinh thi đỗ vào các trường THPT chưa cao.

Các chính sách xã hội được Đảng uỷ, UBND xã quan tâm thực hiện, hàng năm xã đã trích ngân sách hàng chục triệu đồng cùng với sự ủng hộ của nhân dân đã tổ chức thăm hỏi, động viên các gia đình thương binh liệt sĩ, người già cả cô đơn không nơi nương tựa nhân dịp lễ tết. Công tác Quốc phòng-An ninh những năm 1991-1995, trên phạm vi cả nước tiếp tục có những khó khăn do các thế lực thù địch CNXH tăng cường thực hiện âm mưu “ Diễn biến hoà bình”. Đứng trước bối cảnh đó, Đảng uỷ đã chỉ đạo chính quyền, các ban ngành đoàn thể ở địa phương phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của huyện, đồng thời làm tốt công tác giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân về âm mưu "Diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đi đôi với phát động nhân dân đẩy mạnh phong trào toàn dân tấn công trấn áp các loại tội phạm giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương; xây dựng thế trận an ninh nhân dân trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc gắn với cuộc vận động xây dựng thôn xóm bình yên gia đình hoà thuận. Thực hiện chỉ thị 135 của Hội đồng Bộ trưởng, xã đã xây dựng trung đội an ninh, tổ chức tuần tra, canh gác, kiểm tra, kiểm soát ở các khu vực trọng điểm từ 22h 30 đến 5h sáng góp phần cùng toàn dân giữ vững an ninh nông thôn.

Cùng với công tác an ninh, xã đã quan tâm làm tốt công tác quân sự địa phương. Tổ chức biên chế lực lượng dân quân tại chỗ đảm bảo tỷ lệ gần 10% dân số. Năm 1993, Ban chỉ huy Quân sự  xã đã tham mưu tổ chức diễn tập mật danh LX93: chống bạo loạn và đánh địch vu hồi đường sông.Thành phần tham dự cuộc diễn tập gồm: 1 Trung đội dân quân thực binh và các đồng chí cán bộ chủ chốt, cấp uỷ chi bộ, các cán bộ đoàn thể của xã. Hằng năm tổ chức đăng ký thanh niên tuổi 17 , thực hiện khám tuyển 1 vòng, giao quân 1 đợt đủ chỉ tiêu cả năm.Trong 5 năm 1991-1995 đã tiễn 101 thanh niên lên đường nhập ngũ hoàn thành tốt nghĩa vụ quân sự, công tác quân sự địa phương đạt danh hiệu quyết thắng.

Công tác xây dựng Đảng những năm 1991-1995 tập trung thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII và Nghị quyết số 06 của Huyện uỷ ban hành tháng 6 năm 1992 về “ một số nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng bộ” ; Chỉ thị số 14 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành ngày 19/11/1992  về tổ chức phê bình, tự phê bình trong Đảng ; Nghị quyết số 01 của Huyện uỷ ban hành ngày 2/5/1993 về một số nhiệm vụ đổi mới, tăng cường công tác tư tưởng văn hóa trong tình hình mới.

Công tác tư tưởng của Đảng bộ trong bối cảnh khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cùng những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới vào thời điểm 1990 – 1991 gặp nhiều khó khăn. Đa số Đảng viên trong Đảng bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng nhưng cũng có một số  cán bộ đảng viên dao động băn khoăn lo lắng. Trước thực trạng đó, Đảng uỷ đã kịp thời thông tin đến Đảng viên và quần chúng những quan điểm chính thống của Đảng về  nguyên nhân sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu tập trung-kế hoạch hóa quan liêu bao cấp ở Đông Âu và Liên Xô, về âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Đồng thời tổ chức cho toàn Đảng bộ quán triệt, nghiên cứu những nội dung cơ bản của cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, kiên trì con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, khẳng định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu-nước mạnh-xã hội công bằng-văn minh. Công tác tư tưởng được tiến hành theo phương châm mở rộng thông tin nhiều chiều, đa dạng, đảm bảo tính trung thực, chính xác, kịp thời; tăng cường công tác tuyên truyền miệng thông qua hoạt động báo cáo viên và tài liệu báo, tạp chí của Đảng.Tháng 12 năm 1990, Đảng bộ xuất bản sách Lịch sử Đảng bộ xã Hải Nam (sơ thảo từ năm 1930 đến 1990) góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Trong 5 năm từ 1991-1995 đã cử 21 đảng viên đi học lý luận chính trị phổ thông, 13 đoàn viên ưu tú đi học đối tượng đảng và đã kết nạp 9 đồng chí vào Đảng.

Tháng 6 năm 1992, Đảng uỷ đã phát động cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Hải Nam hưởng ứng đợt sinh hoạt chính trị với chủ đề “ Giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, pháp luật của nhà nước, kiên quyết ngăn chặn tệ vô tổ chức, vô kỷ luật” theo tinh thần Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư Trung ương và bài phát biểu của Tổng Bí thư Đỗ Mười ngày 30/5/1992. Tiếp đến tháng 12/1992, Đảng uỷ tổ chức thực hiện Chỉ thị số 14- ngày 19/11/1992 của Ban Bí thư Trung ương về tổ chức phê bình, tự phê bình trong Đảng. Thực hiện hướng dẫn của huyện, Đảng uỷ đã xây dựng chương trình công tác, tổ chức quán triệt khẩn trương, nghiêm túc, không làm lướt, không chiếu lệ; chọn 2 chi bộ làm điểm tự phê bình và phê bình với tinh thần xây dựng, không xen động cơ cá nhân, cấp uỷ kiểm điểm sự lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, chỉ rõ khuyết điểm cá nhân, tập thể, xây dựng kế hoạch sửa chữa. Đến cuối tháng 12/1992 toàn Đảng bộ hoàn thành đợt tự phê bình và phê bình, kết quả phân loại đảng viên năm 1992 có 61% đảng viên loại 1 và 13/21 chi bộ vững mạnh.

Năm 1993, triển khai thực hiện cuộc vận động tự đổi mới tự chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII ), Đảng uỷ đã tổ chức cho cán bộ đảng viên học tập, nghiên cứu nghị quyết và các văn bản hướng dẫn của cấp trên. Tiến hành tự phê bình và phân loại đảng viên, các cấp uỷ viết bản kiểm điểm nêu rõ ưu, khuyết điểm, làm rõ trách nhiệm của tập thể, trách nhiệm của cá nhân mỗi cấp uỷ. Đối với cá nhân đảng viên tự phê bình về ý thức học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, ý thức tổ chức kỷ luật, thực hiện nhiệm vụ đảng viên, về đạo đức lối sống và quan hệ với quần chúng nhân dân. Năm 1993, tổng số đảng viên của Đảng bộ gồm 467 đồng chí, 420 đồng chí dự phân loại, trong đó có:  230 đảng viên xếp loại 1, loại 2 là 164, loại 3 là 16 và 10 đảng viên xếp loại 4. Năm 1994, tổng số đảng viên của Đảng bộ gồm 472 đồng chí, 427 đồng chí dự phân loại, trong đó có:  247 đảng viên xếp loại 1, loại 2 là 154, loại 3 là 16, loại 4 là 8 đồng chí và 14/21chi bộ vững mạnh, 6/21 khá, 1 chi bộ yếu kém. Năm 1995, tổng số đảng viên của Đảng bộ gồm 470 đồng chí, 445 đồng chí dự phân loại, trong đó có:  342 đảng viên xếp loại 1, loại 2 là 83, loại 3 là 12 và 8 đảng viên xếp loại 4. Thực hiện cuộc vận động xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh, Đảng uỷ đã chỉ đạo giữ vững nền nếp, cải tiến nội dung sinh hoạt và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Hàng năm Đảng uỷ đã tiến hành rà soát và bổ sung quy hoạch cán bộ mỗi chức danh  đều có cán bộ dự nguồn, đồng thời căn cứ vào kết quả công tác thực tiễn và phẩm chất đạo đức để bố trí đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ.

Công tác kiểm tra được thực hiện theo đúng quy định của Điều lệ đảng, chú trọng kiểm tra Đảng viên chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, giữ gìn phẩm chất đạo đức, chấp hành quy chế làm việc của cấp uỷ. Từ năm 1991 đến 1994 đã xử lý kỷ luật khai trừ 3 đảng viên, xoá tên 11 đảng viên.Từ năm 1994 đến cuối năm 1995 đã xử lý kỷ luật khai trừ 1 đảng viên, cảnh cáo 2,  xoá tên 3 đảng viên và cho rút 4 đảng viên.

Ngày 19/4/1992, Đảng uỷ đã tổ chức cho nhân dân trong xã đi bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa IX. Cuộc bầu cử được tiến hành an toàn, đúng luật.

 Ngày 20/11/1994, Đảng bộ và nhân dân Hải Nam tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Đã bầu đủ 23 Đại biểu Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 1994-1999. Tại kỳ họp thứ nhất Hội đồng nhân dân xã bầu đồng chí Lê Văn Nhuyên là Chủ tịch Hội đồng nhân dân, đồng chí Đỗ Thanh Chương -  Phó chủ tịch HĐND, đồng chí Lê Đức Huy - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các chức danh Uỷ ban nhân dân xã được kiện toàn theo luật định. Quán triệt và triển khai Nghị quyết 8B (khóa VI) năm 1990 về đổi mới công tác vận động quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; từ năm 1991, Đảng uỷ đã chỉ đạo từng bước đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác vận động quần chúng. Thường xuyên kiện toàn đội ngũ cán bộ gắn với củng cố tổ chức các đoàn thể từ xã đến xóm  và tạo điều kiện về kinh phí cho các đoàn thể hoạt động. Mặt trận Tổ quốc xã đã phối kết hợp với các tổ chức thành viên phát động và tổ chức thực hiện tốt phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Chủ trì thực hiện các cuộc vận động  xây dựng quỹ tình nghĩa và quỹ từ thiện nhân đạo. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã thu hút trên 60% thanh niên vào tổ chức của Đoàn, đồng thời tiếp tục phát động phong trào: Tuổi trẻ anh hùng bảo vệ Tổ quốc, chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên. Động viên thanh niên thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự, xung kích trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Hội phụ nữ  thi đua thực hiện 2 cuộc vận động và 5 chương trình trọng tâm công tác: Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình và nuôi con khoẻ dạy con ngoan, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và trẻ em bỏ học. Cùng với các chương trình công tác , Hội phụ nữ đã thu hút từ 1600 đến 2000 phụ nữ tham gia sinh hoạt, thường xuyên giáo dục, động viên các tầng lớp phụ nữ tích cực lao động sản xuất tham gia công tác xã hội, thực hiện công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình.

Hội nông dân đẩy mạnh  thực hiện phong trào thi đua làm giàu, yêu nước; đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua làm giàu yêu nước, phong trào sản xuất kinh doanh giỏi, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn minh, xây dựng gia đình văn hóa và xây dựng nông thôn mới.

Hội Cựu chiến binh từ 50 hội viên ban đầu, đến năm 1995 đã có trên 300 hội viên. Hội thường xuyên duy trì phong trào thi đua xây dựng hội vững mạnh, hội viên CCB gương mẫu và gia đình CCB văn hóa, phát huy truyền thống bộ đội Cụ Hồ góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hàng năm Hội CCB xã đạt danh hiệu vững mạnh và được Huyện hội xếp loại có phong trào khá.

5 năm (1991-1995), Đảng bộ và nhân dân xã Hải Nam đã đoàn kết, vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, nỗ lực khắc phục khó khăn, phấn đấu đạt được những thành tựu mới trong phát triển kinh tế - xã hội; đời sống nhân dân được cải thiện, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể có chuyển biến tích cực. Những kết quả đó đã tạo tiền đề quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Hải Nam bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

III. ĐẢNG BỘ XÃ HẢI NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN (1996 - 2005)

1. Đảng bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn theo đường lối đổi mới (1996-2000)

Ngày 09/3/1995, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị số 51 về việc mở Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII.

 Ngày12 tháng 01 năm 1996, Đại hội Đảng bộ xã Hải Nam lần thứ XXV đã long trọng khai mạc. Đây là đại hội đầu tiên ở cơ sở nhiệm kỳ 5 năm thay cho nhiệm kỳ 2 năm rưỡi trước đây và cũng là đại hội của thời kỳ đất nước bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đường lối đổi mới. Đại hội đã thông qua ý kiến đóng góp của Đảng bộ và nhân dân vào các văn kiện dự thảo của Trung  ương sẽ trình đại hội VIII của Đảng, các dự thảo báo cáo của Đại hội Đảng bộ tỉnh và Đại hội đảng bộ huyện lần thứ XXII. Sau 2 ngày làm việc, Đại hội đã quyết định phương hướng nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1996-2000 là:  Tăng cường đoàn kết, thống nhất ý chí hành động, khai thác tốt hơn mọi tiềm năng, phát huy sức mạnh tổng hợp nhằm tiếp tục ổn định và phát triển kinh tế toàn diện. Xác định sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Tập trung phát triển kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa mở rộng ngành nghề, dịch vụ, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tích cực xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ổn định và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tăng cường củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Giữ vững và phát huy danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh, chính quyền giỏi toàn diện, các đoàn thể nhân dân tiên tiến. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồm 15 đồng chí. Đồng chí Lê Văn Nhuyên tiếp tục được bầu tái cử chức vụ Bí thư Đảng uỷ, đồng chí Vũ Cao Bàn - Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ, đồng chí Lê Đức Huy - Phó Bí thư - Chủ tịch UBND xã. Các đồng chí: Mai Quang Trung - uỷ viên Ban Thường vụ Đảng uỷ - Phó Chủ tịch UBND xã, Trần Trọng Đại - uỷ viên Ban Thường vụ Đảng uỷ - Quyền Chủ nhiệm HTX Trà Trung.

Ngày 22 tháng 6 đến ngày 01/7/1996, Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã thành công tốt đẹp. Đại hội đề ra nhiệm vụ chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH là chuẩn bị tiền đề mọi mặt để chuyển đất nước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Quán triệt tinh thần nghị quyết đại hội VIII của Đảng và căn cứ đặc điểm của địa phương, Đảng bộ Hải Nam đã xây dựng chương trình hành động, trước hết tập trung các biện pháp phát triển kinh tế.

Trong sản xuất nông nghiệp, Đảng uỷ đã chỉ đạo HTX tiếp tục hoàn thiện đổi mới cơ chế hoạt động theo luật HTX, triển khai kế hoạch số 29-KH/UB ngày 03/4/1996 của UBND huyện về việc tiếp tục cải tiến quản lý sản xuất nông nghiệp. Thực hiện việc chuyển đổi theo luật, mối quan hệ của HTX với xã viên theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi. Hộ xã viên chủ động đầu tư sản xuất, sử dụng sản phẩm, tiếp thu tiến bộ kỹ thuật, thoả thuận sử dụng các dịch vụ của HTX. Đồng thời HTX xoá bỏ mọi bao cấp trong hoạt động, số lượng cán bộ quản lý HTX và đội sản xuất giảm 40% so với trước; HTX có tư cách pháp nhân như một doanh nghiệp, độc lập và chủ động  xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, tổ chức các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, quản lý và sử dụng vốn quỹ do đại hội xã viên giao khóan. Các tổ dịch vụ thuỷ nông, bảo vệ thực vật, cung ứng giống, dịch vụ điện được kiện toàn tiếp tục đảm bảo tốt các khâu dịch vụ.

Công tác thuỷ lợi được cấp uỷ, chính quyền thường xuyên quan tâm củng cố hệ thống đê bối sông Sò, nạo vét sông cấp 2, cấp 3, hệ thống bờ vùng bờ thửa, đảm bảo phòng chống lụt bão và tưới tiêu kịp thời. Trong 5 năm từ 1996 đến 2000 đã đào đắp nạo vét 42.174m3 đất với tổng đầu tư 126.510.000 đồng.

Năm 1996 và 1997 xã triển khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất cho xã viên yên tâm đầu tư  cải tạo khai thác tiềm năng đất đai, tăng năng xuất lao động và giá trị trên 1 đơn vị diện tích canh tác. Đến năm 2000, đã hoàn thành đề án quy hoạch đất đai đến 2013 đồng thời cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 2293/2581 hộ (đạt 88,84%).

 Đi đôi với cải tiến quản lý, HTX tích cực hướng dẫn xã viên đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, nhất là việc chuyển đổi cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ. Hàng năm HTX cung ứng các loại giống lúa theo cơ cấu: 70% Nhị ưu 838, khoảng 30% giống thuần Trung quốc đảm bảo chất lượng, kịp thời vụ, phù hợp với chất đất, trình độ thâm canh của nhân dân, đồng thời cung ứng đủ vật tư phục vụ sản xuất. Năng suất bình quân năm 1996-2000 đạt 120 tạ/ha, tăng 6,4 tạ/ha so với 5 năm trước nhưng chỉ đạt 96% so với chỉ tiêu đại hội XXV đã đề ra (120/125 tạ). Sản lượng thóc đạt 4.460 kg, tăng 5,1% so với 5 năm trước nhưng chỉ đạt 98% so với chỉ tiêu đại hội XXV. Bình quân lương thực 550 kg/ người/ năm.

Cùng với thâm canh cây lúa, các hộ gia đình đẩy mạnh phát triển kinh tế theo mô hình VAC. Hằng năm có trên 5% diện tích cây vụ đông trên chân ruộng 2 lúa tập trung ở đội 1,4,7,8,9,10,14,15,18 góp phần giải quyết lao động tại chỗ và nâng giá trị thu nhập trên 1 đơn vị diện tích. Một số gia đình đi đầu áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, mở rộng chuồng trại chăn nuôi. Tổng đàn lợn bình quân 5 năm (1996-2000) đạt 2700 con, tăng 17% so với trước; đàn lợn nái  có 758 con, tăng 248 con so với năm1996. Tổng sản lượng lợn hơi xuất chuồng đạt 170 tấn, tăng 8,4% và vượt 8,9% so với năm 1996. Đàn gà công nghiệp, Ngan Pháp và việc đầu tư nuôi tôm xú bước đầu có sự nhân rộng ở Hải Nam. Sản xuất nông nghiệp có bước phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhiều đơn vị giữ vững phong trào sản xuất, thanh toán giao nộp sản phẩm nhanh gọn, vụ chiêm năm 2000 tuy giá thuế cao hơn giá thị trường nhưng đa số các đội đều thanh toán đảm bảo đúng thời gian qui định, điển hình là đội: 1,2,4,7,9,11,14,15,18.

Đi đôi với sản xuất nông nghiệp, các HTX đã quan tâm khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Một số hộ xã viên làm kinh tế giỏi đã mở các tổ hợp làm nghề, hướng vào các nghề cơ khí, sản xuất công cụ lao động, sửa chữa máy móc thiết bị, thủ công mỹ nghệ, sản xuất các mặt hàng gỗ, may mặc, chế biến nông sản, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Khuyến khích nhân dân mua các phương tiện vận tải phục vụ lưu thông hàng hóa và đi lại của nhân dân. Đến năm 2000 toàn xã có 97% hộ gia đình nhà xây lợp ngói hoặc mái bằng, có 50% sử dụng nước sạch trong sinh hoạt, bình quân 11 hộ có 1 xe máy, 3 hộ có 1 ti vi, 63 hộ có 1 máy điện thoại cố định. Một số hộ xã viên nợ sản phẩm cũ đã từng bước trả nợ, các HTX đã thu hồi được 23.146 kg thóc, bằng 82% tổng số phải thu. Số hộ nghèo còn khoảng 10%.

Tuy vậy, trong phát triển kinh tế việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa đáp ứng yêu cầu, ngành nghề chậm phát triển. Diện tích vụ đông trên chân ruộng 2 lúa đạt thấp, hiệu quả kinh tế trên 1 đơn vị canh tác chưa cao. Việc đổi mới quản lý của các HTX theo luật HTX còn bất cập.Thanh niên thiếu việc làm ngày càng tăng, tình trạng thiếu vốn sản xuất diễn ra phổ biến nhưng chưa có biện pháp khắc phục.

Về công tác xây dựng cơ bản, Đảng bộ và nhân dân Hải Nam đã tập trung đầu tư kiến thiết xây dựng các công trình trọng điểm bằng nguồn vốn ngân sách xã, vốn tích luỹ của HTX và nhân dân đóng góp.Từ năm 1996 đến 2000 đã đầu tư 1.107.354.354 đồng, trong đó nhân dân góp 340.614.000 đồng: Năm 1996, khởi công xây nghĩa trang liệt sỹ tại địa điểm mới và đến năm 1997 hoàn thành công trình với tổng đầu tư 654.996.756 đồng, xây trường THCS cao tầng, sửa chữa nâng cấp hội trường, nhà làm việc UBND và trạm y tế.

Thực hiện đề án giao thông do huyện phát động năm 1995, trong 5 năm từ 1996 đến năm 2000 xã đã đổ nhựa 5,68 km đường trục xã với tổng giá trị 1.381.395.961 đồng, trong đó nhân dân đóng góp 967.720.230 đồng, các HTX trích quỹ 134.075.731 đồng, cấp trên hỗ trợ 179.600.000 đồng. Cùng với đường trục xã, nhân dân các xóm đã góp 717.923.280 đồng làm đường bê tông xóm với tổng chiều dài trên 1,6 km.

 Công tác thu chi quản lý ngân sách theo pháp lệnh kế toán thống kê được quyết toán qua kho bạc và có sự giám sát của nhân dân. Tổng thu ngân sách xã bình quân hàng năm đạt 600 triệu đồng, trong đó thu thường xuyên đạt trên 300 triệu đồng/năm. Tuy vậy, nguồn thu thường xuyên không đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, 1 số công trình phúc lợi đã xây xong nhưng ngân sách nợ bên thi công 450 triệu đồng chưa có nguồn thanh toán.

Năm 1996, hệ thống truyền thanh do HTX quản lý được chuyển giao cho UBND xã quản lý cơ sở vật chất, Đảng uỷ quản lý nội dung chương trình. Xã đã đầu tư 26.285.000đồng mua sắm, nâng cấp các thiết bị truyền thanh. Đội ngũ cán bộ và cộng tác viên được tăng cường, đảm bảo duy trì chế độ truyền thanh 4 cấp, phát tin địa phương 15 phút ngay sau chương trình của tỉnh và huyện.

Từ năm 1995, Đảng bộ và nhân dân Hải Nam thi đua hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” do Mặt trận phát động, cuộc vận động xây dựng làng văn hóa do Bộ văn hóa phát động và cuộc vận động toàn dân tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc do Bộ công an phát động. Năm 1996, các trường học, trạm y tế và xóm đăng ký xây dựng đơn vị xóm văn hóa, có trên 30% số hộ đăng ký xây dựng gia đình văn hóa, 19/20 xóm hoàn thành việc xây dựng hương ước.

Sự nghiệp giáo dục được củng cố và phát triển toàn diện, thu hút trẻ em đến lớp đạt kế hoạch, không có học sinh bỏ học. Chất lượng văn hóa và đạo đức có tiến bộ rõ rệt. Trường Tiểu học và THCS đạt tiên tiến, trường Mầm non và giáo dục thường xuyên đạt loại khá của huyện. Năm học 1998- 1999, xã Hải Nam hoàn thành phổ cập THCS cho nhân dân. Trong 5 năm từ 1996-2000 đã đầu tư cơ sở vật chất các trường Mầm non, Tiểu  học, Trung học cơ sở  từng bước đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học.

 Ngày 28/9/1997, Hội Khuyến học của xã được thành lập ban đầu gồm 79 hội viên do ông Trần Xuân Ruyến làm Chủ tịch hội, cuối năm 1998 đồng chí Trần Xuân Phóng đảm nhiệm chủ tịch hội. Phong trào xã hội hóa giáo dục và khuyến học bước đầu phát triển. Quỹ khuyến học của xã ban đầu đã có trên 7 triệu đồng. Một số xóm, dòng họ xây dựng được quỹ khuyến học hàng năm trích thưởng cho học sinh giỏi và và học sinh nghèo vượt khó.

Công tác y tế, dân số, chăm sóc bảo vệ trẻ em có nhiều tiến bộ, các chương trình y tế cộng đồng, phòng chống dịch bệnh, tiêm chủng mở rộng, nha khoa học đường, phòng chống mắt hột, truyền thông dân số, bảo hiểm y tế được triển khai thực hiện có kết quả. Trong 5 năm 1996 – 2000, không có dịch bệnh xảy ra, chất lượng khám chữa bệnh được nâng cao. Tỷ lệ phát triển dân số năm bình quân 5 năm là 0,98 %, tỷ lệ sinh con thứ 3 năm 1999 là 9,9% giảm 17,1% so với năm1996.

Từ năm 1996, hàng năm ngân sách xã đã chi gần chục triệu đồng thăm hỏi, trợ cấp gia đình chính sách, cấp sổ tình nghĩa cho gia đình chính sách. Đến năm 2000, các gia đình chính sách ở Hải Nam đều có mức sống ổn định từ trung bình trở lên.

Tuy vậy, trong lĩnh vực văn hóa xã hội ở một số cơ sở chưa thực hiện nghiêm túc quy chế nếp sống văn hóa, đám tang kèn trống lên loa quá giờ qui định, hiện tượng ăn uống, lễ nghi rườm rà. Tệ nạn xã hội gia tăng, nhất là nạn ma tuý gây lo ngại cho nhân dân. Phòng học và trang thiết bị chưa đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng dạy học, chưa chuyển được trường Tiểu học về khu trung tâm xã, tỉ lệ học sinh đỗ vào các trường THPT còn thấp, phong trào xã hội hóa giáo dục chưa được nhân rộng.

Công tác quốc phòng an ninh được tổ chức theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, Ban quân sự và  an ninh làm tham mưu. Đồng chí Bí thư Đảng uỷ kiêm chính trị viên xã đội. Hàng năm xã chủ động xây dựng kế hoạch tác chiến trị an, làm tốt công tác quản lý lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, huấn luyện hội thao kỹ thuật. Từ năm 1996 đến năm 2000 xã đã tiễn 92 thanh niên lên đường nhập ngũ. Các chính sách hậu phương quân đội và giải quyết chính sách được thực hiện nghiêm túc. Công tác quân sự tiếp tục giữ vững danh hiệu đơn vị quyết thắng. Công tác an ninh đã phối hợp chặt chẽ với công tác quân sự, phát huy vai trò các đoàn thể nhân dân, nhất là với Hội cựu chiến binh nhằm đẩy mạnh phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Lực lượng an ninh thực hiện theo nghị định 40/CP, toàn xã gồm có trưởng công an, 1 phó công an, 7 an ninh viên thường trực và 20 đồng chí  Phó xóm kiêm an ninh viên được biên chế thành trung đội. Ban công an xã hằng năm đều được huyện tặng giấy khen đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ an ninh trật tự. Tuy vậy, tình hình an ninh trật tự trong địa bàn xã diễn biến phức tạp, tệ nạn nghiện hút, đánh bạc gia tăng nhưng xử lý chưa nghiêm, chưa dứt điểm. Công tác khám  tuyển nghĩa vụ quân sự gặp nhiều khó khăn do thanh niên đi làm xa quê, việc xử lý những thanh niên trốn tránh nghĩa vụ quân sự chưa kịp thời và chưa nghiêm.

Thực hiện quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc, MTTQ được củng cố và kiện toàn theo hướng mở rộng các tổ chức thành viên và đưa công tác Mặt trận xuống địa bàn dân cư, tới từng hộ gia đình. Năm 1998, đảng bộ đã lãnh đạo, tổ chức triển khai chỉ thị 37-CT/TW của Ban bí thư Trung ương và chỉ thị 30-CT/TW của Bộ chính trị về công tác tôn giáo và quy chế dân chủ ở cơ sở, các kiến nghị của nhân dân được xem xét giải quyết, công khai hóa các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội để dân biết, dân bàn, dân kiểm tra. Công tác Mặt trận đã có nhiều hình thức mới, phù hợp để động viên nhân dân, các chức sắc tôn giáo, tín đồ tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng xứ họ đạo tiên tiến, gia đình công giáo gương mẫu, chùa tinh tiến, thực hiện các quy định của chính phủ về các hoạt động tôn giáo, phối hợp tuyên truyền vận động nhân dân tham gia xây dựng hệ thống chính trị thông qua hiệp thương bầu cử HĐND các cấp, thực hiện phong trào tình nghĩa từ thiện nhân đạo, góp phần tạo ra các sinh hoạt tinh thần phong phú và lành mạnh.

Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thực hiện phong trào thanh niên thâm canh giỏi đạt năng suất cao,  phong trào tuổi trẻ giữ nước.Tổ chức chức đoàn thường xuyên phối hợp với Ban quân sự, Hội cựu chiến binh tổ chức diễn đàn giao lưu học tập truyền thống bộ đội cụ Hồ, tìm hiểu luật nghĩa vụ quân sự. Thường xuyên làm tốt việc giới thiệu những đoàn viên ưu tú để tổ chức đảng bồi dưỡng kết nạp. Năm 1996 có 65-70% thanh niên tham gia tổ chức đoàn, năm 1999 và 2000 Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh xã Hải Nam được Huyện Đoàn tặng giấy khen.

Đến năm 2000, Hội phụ nữ xã có 2114 hội viên sinh hoạt ở 20 chi hội cơ sở. Từ năm 1996-2000, Hội phụ nữ thực hiện phong trào: Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi con khoẻ dạy con ngoan, xây dựng gia đình hạnh phúc và  phong trào Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước do Trung ương hội phát động. Hàng năm có từ 8-11chi hội đạt xuất sắc, 7- 10 khá và 1-3 chi hội yếu. Phong trào Phụ nữ Hải Nam thường xuyên được Huyện hội xếp loại xuất sắc, UBND huyện tặng 4 giấy khen, năm 1999 Công an tỉnh tặng giấy khen về thành tích xây dựng thôn xóm bình yên.

Hội nông dân xã từ năm 1996 đến năm 2000 có từ 350-450 hội viên, đạt 25-30% số hộ nông dân. Hội đã phối hợp chặt chẽ với ngân hàng tổ chức cho nông dân vay 937 triệu đồng để giúp nông dân thực hiện phong trào "sản xuất kinh doanh giỏi, giúp nhau xoá đói giảm nghèo". Thực hiện sự liên kết 4 nhà: nhà nông, nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, tiến hành dồn điền đổi thửa, quy hoạch vùng chuyển đổi, vùng sản xuất cây vụ đông, vùng đất công ích, tạo điều kiện cho nông dân áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Kinh tế hộ phát triển, dần hình thành các mô hình trang trại vừa và nhỏ.

Hội Cựu chiến binh đến năm 2000 đã có 378 hội viên. Hội thường xuyên duy trì phong trào thi đua xây dựng hội vững mạnh, hội viên CCB gương mẫu và gia đình CCB văn hóa, phát huy truyền thống bộ đội Cụ Hồ góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Từ năm 1996 đến năm 2000 có 17/19 chi hội ở 20 xóm đạt trong sạch vững mạnh, 2/19 chi hội trung bình, 88,5% hội viên đạt mức 1 và 97% hộ gia đình Cựu chiến binh gương mẫu. Nhiều hội viên vượt khó vươn lên xoá nghèo, làm giàu chính đáng, trong 5 năm tổ chức hội đã có quỹ hội trên 20 triệu đồng, huy động 130 triệu đồng cho 120 hội viên vay phát triển sản xuất. Hàng năm Hội CCB xã đạt danh hiệu vững mạnh và được Huyện hội xếp loại có phong trào khá.

Ngày 01/10/1996, Hội vui tuổi già được đổi tên thành Hội người cao tuổi. Năm 1998, hội phát động phong trào “Ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo” được đông đảo các hội viên nhiệt tình hưởng ứng. Hội người cao tuổi thường xuyên phát động phong trào chăm lo rèn luyện sức khoẻ để sống vui sống khoẻ sống có ích. Dịp đầu xuân hội người cao tuổi thường phối hợp với hội phụ nữ, chính quyền đoàn thể và gia đình tổ chức mừng thọ các cụ từ 70 tuổi trở lên.

Hội Chữ thập đỏ xã gồm 20 chi hội cơ sở với gần 500 hội viên. Hội thường xuyên vận động nhân dân giúp đỡ những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn cơ nhỡ đau ốm hoạn nạn.

Mặc dù hoạt động của các đoàn thể những năm 1996 đến 2000 có những chuyển biến tiến bộ, nhưng phong trào chưa đồng đều, hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ còn thụ động, chưa năng động sáng tạo, công tác tôn giáo, công tác thanh tra và hoà giải còn nhiều hạn chế, khả năng tập hợp đoàn viên, hội viên của tổ chức Đoàn và Hội Nông dân còn yếu.

Công tác chính quyền tiếp tục được củng cố kiện toàn, nâng cao chất lượng giám sát của Hội đồng nhân dân và quản lý của UBND. Thường trực HĐND đã phối hợp với các ban ngành chức năng chỉ đạo tổ chức cuộc bầu cử quốc hội khóa X vào ngày 20/7/1997 đảm bảo an toàn, đúng luật.

Hội đồng nhân dân thực hiện tốt chức năng là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, trước mỗi kỳ họp đều tổ chức tiếp xúc cử tri, các chương trình kinh tế xã hội  được thảo luận và thông qua tại kỳ họp theo luật định. Bộ máy cán bộ thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII và Nghị định 50, Nghị định 09 của Chính phủ. Đội ngũ cán bộ theo chức danh có sự phân công, phân nhiệm cụ thể. Tuy vậy, năng lực của 1 vài đại biểu chưa tương xứng với vị thế vai trò trách nhiệm đại biểu nhân dân, công tác quản lý đất đai chưa chặt chẽ, chưa xử lý dứt điểm việc lấn chiếm đất đai và lấn chiếm hành lang giao thông.

Ngày 14 -11-1999, Đảng bộ đã lãnh đạo bầu cử Hội đồng nhân dân xã  khóa XVI nhiệm kỳ 1999-2004 gồm 23 Đại biểu. Tại phiên họp thứ nhất, HĐND xã đã bầu đồng chí Lê Văn Nhuyên tái cử Chủ tịch Hội đồng nhân dân, đồng chí Đỗ Thanh Chương tái cử Phó Chủ tịch HĐND xã, đồng chí Lê Đức Huy tái cử  Chủ tịch UBND xã.

Thực hiện phương châm xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong nhiệm kỳ qua Đảng bộ đã triển khai toàn diện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng theo tinh thần của nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII. Trọng tâm là xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, tăng cường đoàn kết thống nhất trong đảng và sự đồng thuận trong nhân dân coi đó là nhân tố bảo đảm thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đảng bộ luôn coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, các đợt học tập Nghị quyết được triển khai chặt chẽ từ khâu tổ chức học tập đến khâu xây dựng chương trình hành động và tổ chức thực hiện. Đảng viên tham gia học tập thường đảm bảo tỷ lệ 85-90%. Hàng tháng, hàng tuần, Đảng uỷ tổ chức giao ban nắm dư luận xã hội, kịp thời định hướng tư tưởng cho cán bộ Đảng viên. Trong sinh hoạt các chi bộ được cấp báo Nhân dân, báo Nam Định và thông báo nội bộ của tỉnh nhằm thông tin những vấn đề mới về lý luận và cập nhật chủ trương, chính sách cho cán bộ, đảng viên.

 Thực hiện nghị quyết số 17/NQ - HU ngày 20/7/1996 về công tác đào tạo bồi dưỡng sử dụng đội ngũ cán bộ. Đảng bộ xã đã tiến hành đánh giá đội ngũ cán bộ đương chức, lựa chọn, rà soát bổ sung những cán bộ có khả năng, có triển vọng vào quy hoạch để tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng sử dụng, mỗi chức danh bố trí 3 độ tuổi kế tiếp nhau, có cán bộ dự bị để bồi dưỡng , tuyển chọn. Trong 5 năm 1996 -2000, Đảng bộ đã cử 14 đảng viên đi học sơ cấp chính trị, 2 đồng chí học trung cấp quản lý nhà nước, 21 quần chúng học đối tượng Đảng và đã kết nạp 13 đảng viên mới, tăng 40% so với nhiệm kỳ trước.

Ngày 17/02/1997, Huyện uỷ ban hành Nghị quyết số 05-NQ/HU về việc "Tiếp tục cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới ". Đảng uỷ chỉ đạo các chi bộ học tập, thảo luận, đánh giá thực trạng tình hình chất lượng sinh hoạt chi bộ và xây dựng các giải pháp giữ vững nền nếp sinh hoạt, cải tiến nội dung hình thức sinh hoạt, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc xây dựng đảng, phân công công tác cho đảng viên. Tháng 12 năm 1997, Đảng uỷ tổ chức thi bí thư chi bộ giỏi, nhằm giúp Bí thư, chi uỷ nâng cao nhận thức về công tác đảng và phương pháp công tác, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.

Từ năm 1996 đến năm 2000 đã tiến hành kiểm tra 10 chi bộ và 13 đảng viên, chủ yếu là kiểm tra chế độ sinh hoạt, quản lý đảng viên, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Thông qua công tác kiểm tra đã kịp thời phê bình những cán bộ, đảng viên lười học tập, phát ngôn vô tổ chức, thường xuyên vắng thiếu trong sinh hoạt, đồng thời điều chỉnh  những yếu kém trong công tác bố trí sử dụng cán bộ, kiên quyết xử lý nghiêm minh những sai phạm.Trong 5 năm đã xoá tên và cho rút khỏi danh sách 8 đảng viên, xử lý kỷ luật 5 đảng viên trong đó: Khai trừ 1, cách chức 1, cảnh cáo 3, Cùng với công tác kiểm tra đảng viên thực hiện Cương lĩnh, điều lệ đảng, trong nhiệm kỳ Đảng bộ thường xuyên quán triệt và giáo dục đảng viên thực hiện theo tinh thần quy định số 55 của Bộ chính trị về 19 điều đảng viên không được làm và bước 2 cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng theo tinh thần Nghị quyết trung ương 6 (lần 2) khóa VIII. Qua phân tích chất lượng đảng viên từ năm 1996 đến 2000 có 75% đảng viên xếp loại 1 và 13/22 chi bộ vững mạnh, 9/22 chi bộ khá, không có chi bộ yếu kém. Kết thúc năm 2000, Đảng bộ giữ vững danh hiệu trong sạch vững mạnh, chính quyền giỏi toàn diện, các đoàn thể tiên tiến đó là tiền đề cơ bản để cán bộ, đảng viên và nhân dân Hải Nam vững bước tiến vào thế kỷ XXI cùng với cả nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

2. Đại hội Đảng bộ xã Hải Nam lần thứ XXVI - Đại hội đầu tiên bước vào thế kỷ XXI thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn (2001-2005)

Ngày 22 tháng 5 năm 2000, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 54-CT/TW về việc tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội IX của Đảng.

Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện uỷ, trong 2 ngày 06 và 07 tháng 9 năm 2000, Đảng bộ xã Hải Nam đã tổ chức Đại hội Đại biểu lần thứ XXVI nhiệm kỳ 5 năm đầu bước vào thế kỷ XXI (2001-2005).

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồm 15 uỷ viên. Đồng chí Lê Văn Nhuyên tiếp tục được bầu  tái cử chức vụ Bí thư Đảng uỷ, đồng chí Trần Văn Đán - Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ, đồng chí Lê Đức Huy - Phó Bí thư -Chủ tịch UBND xã, đồng chí Mai Quang Trung - uỷ viên Ban Thường vụ - Phó Chủ tịch UBND xã, đồng chí Mai Khải Hoàn - uỷ viên Ban Thường vụ - Xã đội trưởng.

 Đại hội đã nhất trí thông qua phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu từ 2001-2005 là: Tăng cường đoàn kết thống nhất, tập trung  khai thác mọi nguồn lực nhằm ổn định và phát triển toàn diện, xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, trọng tâm là sản xuất lương thực thực phẩm; tăng cường quốc phòng an ninh, giữ vững an ninh nông thôn trong mọi tình huống. Tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, giữ vững và phát huy danh hiệu Đảng bộ vững mạnh, xây dựng chính quyền giỏi toàn diện, các đoàn thể quần chúng tiên tiến.

 Đại hội đã thông qua các chỉ tiêu kinh tế-xã hội phấn đấu trong 5 năm 2001-2005 là: Giữ vững diện tích trồng lúa 1018,4 mẫu, tổng sản lượng lương thực 4656 tấn/năm, lương thực bình quân đầu người 560-580 kg/năm. Mở rộng diện tích trồng cây vụ đông trên chân ruộng 2 lúa đạt 30 ha trở lên. Chăn nuôi giữ vững tổng đàn lợn hàng năm từ 2500 con trở lên,  trong đó phát triển đàn lợn lái sinh sản đạt 700-1000 con. Ngân sách xã thu thường xuyên đạt 250-300 triệu đồng/năm. Quản lý đất đai theo luật đúng với từng loại đất, đúng với chủ sử dụng. Hoàn thiện đề án giao thông đường trục xã và đường dong xóm. Xây dựng đề án xây dựng trường Tiểu học kiên cố, nâng cấp trường Mầm non ở khu Trà Trung và Hội Nam. Phấn đấu tỷ lệ phát triển dân số dưới 0,7%, trong đó 5-10 xóm không người sinh con thứ 3 trở lên.

Nghị quyết đại hội được tổ chức thực hiện trong điều kiện thế và lực của đất nước đã lớn mạnh hơn nhiều so với 10 năm trước,  đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân có những tiến bộ đáng kể.

Ngày 06/8/2000 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh ra Nghị quyết số 02, ngày 10/10/2000 Huyện uỷ ban hành Chỉ thị số 08 về việc dồn điền đổi thửa, ngày18/5/2001 UBND huyện ban hành đề án “Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, mở rộng sản xuất vụ đông”. Mục đích chính của chủ trương trên là: Quy hoạch vùng chuyển đổi, vùng sản xuất vụ đông, vùng đất công nhằm tạo điều kiện thâm canh tăng vụ, tạo ra sản phẩm hàng hóa có chất lượng, có thương hiệu; đồng thời tạo điều kiện chuyển đổi cây trồng vật nuôi, tăng giá trị thu nhập trên 1 đơn vị diện tích canh tác.

 Thực hiện chủ trương của cấp trên, Ban chấp hành Đảng uỷ xã đã chỉ đạo UBND xây dựng đề án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giao cho Ban quản trị các HTX xây dựng phương án cụ thể. Các chi bộ mở đợt sinh hoạt chuyên đề, đồng thời tổ chức họp xóm để nhân dân bàn bạc, biểu quyết triển khai thực hiện theo phương châm: xã xây dựng quy hoạch vùng chuyên canh, vùng chuyển đổi, vùng cây vụ đông; các xóm khoanh vùng sản xuất vụ đông, vùng chuyển đổi sản xuất theo quy hoạch chung, khuyến khích các hộ xã viên căn cứ vào quy hoạch, nhu cầu và khả năng sản xuất để tự đổi thửa cho nhau nhằm khắc phục tình trạng manh mún; giảm số thửa ruộng bình quân toàn xã từ 3,9 thửa/hộ xuống còn 2,8 thửa/hộ, tạo điều kiện chuyển đổi sản xuất và thâm canh tăng giá trị thu nhập  trên 1 đơn vị canh tác. Các mô hình chuyển đổi từ diện tích đất 2 lúa kém hiệu quả sang trồng màu, nuôi trồng thuỷ sản ở 1 vài đơn vị, hộ gia đình đã có thu nhập cao gấp 2 đến 3 lần so với trồng lúa. Đến năm 2005, toàn xã đã có: 82 mẫu cây vụ đông chủ yếu là cây Bí xanh trên chân ruộng 2 lúa (bằng 8,05% tổng diện tích đất 2 lúa) điển hình là xóm 4,6,7,9,10,14,15 và 27 hộ với 13,5 mẫu ruộng 2 lúa chuyển nuôi cá nước ngọt cho thu nhập khá. Xã đã tập trung chỉ đạo khai thác nuôi trồng thuỷ sản, cải tạo phân chia 4 cánh đồng nuôi trồng thuỷ sản với diện tích 78,26 ha thành 9 cánh đồng nhỏ, tổ chức đấu thầu công khai với tổng giá trị 1.726.670.000 đồng. Các hộ đấu thầu nuôi trồng thuỷ sản đã chuyển dần từ nuôi quảng canh sang nuôi bán công nghiệp, tuy thu nhập chưa cao song đã tích luỹ kinh nghiệm cho những năm tiếp theo và các hộ này đã thực hiện nghiêm chế độ hợp đồng.

Cùng với việc dồn điền đổi thửa qui vùng sản xuất đẩy mạnh trồng cây màu, cây vụ đông trên chân ruộng 2 lúa, nuôi trồng thuỷ sản, Đảng bộ đã chỉ đạo các HTX tổ chức tập huấn chuyển giao kỹ thuật, thực hiện chuyển dịch cơ cấu giống, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật thâm canh, sử dụng phân bón tổng hợp NPK, chủ động phòng trừ sâu bệnh, phòng trừ chuột phá hoại; đồng thời cung ứng đủ lượng vật tư thiết yếu. Những năm 2001 – 2005, các HTX chỉ đạo đổi mới cơ cấu giống lúa: Tỷ lệ lúa lai đạt 65-70%, còn lại chủ yếu là Bắc thơm số 7 và Nam định 1. Kết quả năng suất lúa bình quân 5 năm từ năm 2001 đến 2005: HTX Trà Trung đạt 128,7 tạ/ha, tăng 9,94 tạ/ha so với nhiệm kỳ trước. HTX Hùng Sơn đạt 125,17 tạ/ha, tăng 7,73 tạ/ha so với nhiệm kỳ trước. HTX Hồng Phong đạt 127,42 tạ/ha, tăng 9,08 tạ/ha so với nhiệm kỳ trước. Riêng năm 2004, năng suất lúa bình quân toàn xã đạt 133,6 tạ/ha, là năm có năng suất cao nhất so với trước.

          Ngày 24 và 25 tháng 7 năm 2005, bão số 2 gây mưa lớn làm chết một số diện tích lúa mới cấy. Ngày 18/9/2005 bão số 6 và ngày 27/9/2005 bão số 7 với sức gió cấp 10, giật trên cấp 12, đây là cơn bão mạnh nhất kể từ sau trận bão năm 1944  đổ bộ trực tiếp vào Hải Hậu. Bão số 7 đã phá vỡ 1500 m đê tuyến 1 ở thị trấn Thịnh Long, Hải Hoà, Hải Chính. Nhân dân Hải Hậu bị thiệt hại nặng về tài sản và sản xuất. Riêng ở địa bàn Hải Nam, tuy là xã nội địa nhưng bão đã làm hư hỏng một số nhà cửa, nước tràn qua mặt đê tàn phá hầu hết diện tích nuôi trồng thuỷ sản, ước tính tổng thiệt hại toàn xã khoảng 30 - 35% giá trị sản xuất. Trước tình hình đó, Đảng uỷ, chính quyền, các ban ngành đoàn thể của địa phương đã vận động nhân dân tích cực, khẩn trương khắc phục thiệt hại sau bão. Người bị thiệt hại ít thì góp tiền của ủng hộ người bị thiệt hại nặng. Cùng với khắc phục thiệt hại do bão gây ra ở địa phương, nhân dân Hải Nam đã quyên góp trên 15 triệu đồng ủng hộ các xã ven biển.

Đi đôi với trồng trọt, nhiều hộ xã viên đầu tư chăn nuôi gia súc, gia cầm theo mô hình trang trại bán công nghiệp và công nghiệp. Các giống lợn: Landvat, Iorshire, Đu- rốc, Beshire có tỷ lệ thịt nạc cao từ 45 đến 50%(siêu nạc), giống thỏ Kalifornia, thỏ Tân Tây Lan trắng, giống vịt Kakicambell, vịt Tam hoa, ngan Pháp, gà Tam hoàng, gà Lương phượng được nhân rộng. Tổng đàn lợn nái 871 con, tăng 15% so với năm 2000.

Ngày 03/02/2004, ở Hải Hậu xuất hiện  dịch cúm gia cầm H5N1 tại xã Hải Đông và Hải Tây đã làm chết 287 con gà, ngan. Huyện đã chỉ đạo các xã  thành lập Ban chỉ đạo phòng chống dịch. Ban chỉ đạo phòng chống dịch của xã Hải Nam đã triển khai vệ sinh phun thuốc khử trùng, tiêu độc chuồng trại, không để xảy ra dịch ở địa phương.

Kinh tế hộ phát triển theo hướng đa dạng các loại hình sản xuất kinh doanh dịch vụ. Ngoài sản xuất nông nghiệp, các dịch vụ cung ứng hàng hóa, vật tư, chế biến lương thực, thực phẩm, nhà hàng bước đầu mở rộng, hình thành sự phân công lao động mới. Đến năm 2005, nghề cơ khí, nề, mộc, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, dịch vụ hình thành các cơ sở tổ hợp. Tỷ trọng cơ giới hóa bình quân khoảng 5 ha canh tác có 1 máy cầy bừa cỡ nhỏ, 2 máy tuốt lúa và các phương tiện vận chuyển cơ giới thuỷ bộ. Mỗi đội sản xuất có từ 1 đến 2 máy cày bừa, 1 đến 2 dàn máy xay xát.

 Trong 5 năm từ 2001 đến năm 2005, cả 3 HTX nông nghiệp đều tăng cường công tác quản lý theo luật HTX. Thực hiện cơ chế mới, Ban quản lý HTX đã khắc phục mọi khó khăn, vươn lên làm tốt chức năng quản lý  điều hành sản xuất, tổ chức các dịch vụ cung ứng vật tư, giống cây trồng vật nuôi đảm bảo chất lượng, tạo điều kiện cho nhân dân đẩy mạnh sản xuất.

Tuy vậy trong phát triển kinh tế việc dồn điền đổi thửa cá biệt có xóm triển khai chậm, cây vụ đông trên chân ruộng 2 lúa chưa đạt chỉ tiêu. Đầu tư khuyến khích phát triển sản xuất còn mang tính bình quân, chưa chú ý đầu tư  vùng chuyển đổi. Các mô hình chuyển đổi sản xuất còn nhỏ lẻ, chưa đầu tư đúng mức, số mô hình có hiệu quả cao chưa nhiều. Nuôi trồng thuỷ sản chưa tương xứng với tiềm năng, chưa chú ý quy trình kỹ thuật, thu nhập bấp bênh, cá biệt có hộ thua lỗ. ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chậm phát triển, lao động nông nghiệp thiếu việc làm ngày càng tăng.

Mặc dù ngân sách còn nhiều khó khăn nhưng với tinh thần đoàn kết thống nhất cao, Đảng bộ chính quyền và nhân dân Hải Nam đã tiết kiệm trong chi tiêu, tiếp tục huy động đóng góp của nhân dân để đầu tư  xây dựng các công trình phúc lợi theo nguyên tắc: Dân biết,  dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, thực hiện đúng quy trình thủ tục xây dựng cơ bản. Vì vậy công tác kiến thiết xây dựng cơ bản được cán bộ và nhân dân tin tưởng đồng tình hưởng ứng.

Từ năm 2001 đến 2005, tổng đầu tư xây dựng cơ bản là 3.378.681.000 đồng, tăng 172.078.000 đồng; trong đó: Nhân dân góp 293.880.000 đồng, ngân sách xã 1.753.800.000 đồng, các HTX 248.321.000 đồng, ngân sách cấp trên 0,8 tỷ đồng, các HTX đầu tư các công trình phục vụ sản xuất 176.680.000 đồng, HTX Trà trung nâng cấp khu văn phòng 106 triệu đồng. Với nguồn đầu tư trên, trong 5 năm Hải Nam đã hoàn thành nhiều hạng mục quan trọng: 12 phòng học cao tầng và 4 phòng hiệu bộ trường Tiểu học, 2 phòng học miền Hội Nam, 4 phòng học miền Trà Trung, cống Hà Lạn 1/3, cầu xóm 10, cống xóm 17, dự án nuôi tôm công nghiệp, hệ thống chiếu sáng đường giao thông nông thôn.

 Thực hiện đề án giao thông thuỷ lợi giai đoạn 2, bằng nguồn vốn ngân sách xã, HTX đã đầu tư gần 250 triệu đồng hoàn chỉnh nhựa hóa đường trục xã gồm các đoạn từ cống ông Tiển đến cống ông Văn và từ cống ông Văn lên xóm 11, đoạn từ nghĩa trang lên xóm 18. Nhân dân các xóm góp 39 triệu đồng hoàn thành việc đổ bê tông 970 m đường xóm còn lại. Các HTX đầu tư trên 300 triệu đồng sửa chữa và xây mới phai đập, bờ vùng, bờ thửa, sông cấp 2, mương máng cấp 3.

Để chủ động phòng chống lụt bão, hằng năm xã đã xây dựng phương án phòng chống bão lũ theo nguyên tắc: Không chủ quan, lấy phòng là chính. Nếu thiên tai xảy ra thì tích cực chống, ưu tiên bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và kiên trì khắc phục hậu quả thiên tai. Chủ động công tác chuẩn bị với phương châm 4 tại chỗ: Chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ, hậu cần tại chỗ. Hàng năm xã thường xuyên dự trữ 3000 cọc tre, 3500 bao tải và sẵn sàng các phương tiện vận tải đáp ứng kịp thời phòng chống bão lụt ở địa phương và ứng cứu khi cần thiết.

Năm 2001, UBND xã triển khai công tác tài chính ngân sách theo tinh thần đề án: Đẩy mạnh xây dựng ngân sách xã, mở rộng thị trường hàng hóa do UBND huyện ban hành. Thực hiện chủ trương này, UBND xã thu chi ngân sách theo luật và được hạch toán qua kho bạc nhà nước. Các quỹ do nhân dân đóng góp được bàn bạc dân chủ công khai, sử dụng đúng mục đích. Thu ngân sách xã từ nguồn thu thường xuyên trên địa bàn cơ bản đáp ứng trả lương, phụ cấp, đảm bảo hoạt động của đảng, chính quyền, đoàn thể. Tổng thu ngân sách bình quân 5 năm đạt 1.087.813.000 đồng, tăng 784 triệu đồng so với chỉ tiêu.

Hoàn chỉnh việc cấp đất thực địa và hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất sau dồn điền đổi thửa. Lập kế hoạch quy hoạch đất và thực hiện đề án quy hoạch đất đai đến năm 2010. Tuy vậy, hiện tượng tranh chấp lấn chiếm đất đai, đào đóng lề đường vi phạm chỉ giới giao thông còn sảy ra, tiến độ cấp giấy chứng nhận cho nhân dân còn chậm.

Tháng 5 năm 2001, xã tiến hành sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” và 1 năm thực hiện cuộc vận động “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” nhằm rút kinh nghiệm để tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động trong giai đoạn 2001-2005.

Trong 5 năm, xã đã đầu tư nâng cấp hệ thống truyền thanh đảm bảo mỗi xóm có 1 cụm loa . Đài truyền thanh đã biên tập hàng trăm tin bài biểu dương người tốt việc tốt, cán bộ văn hóa kẻ vẽ  khẩu hiệu, áp phích cổ động tuyên truyền đường lối chủ trương chính sách của Đảng pháp luật của nhà nước, phổ biến kiến thức, kỹ thuật động viên nhân dân hăng hái lao động sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa.

Phong trào văn nghệ, TDTT quần chúng phát triển sâu rộng, câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, câu lạc bộ những người không sinh con thứ 3, câu lạc bộ gia đình trẻ được đông đảo nhân dân tham gia. Hàng năm vào dịp kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng 8 và Quốc khánh mồng 2 tháng 9- Ngày hội truyền thống cách mạng ở huyện, nhiều xóm thi đua tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ thể dục thể thao. Trong các kì hội diễn văn nghệ thể dục thể thao, xã thường xuyên được UBND huyện tặng giấy khen.

  Đầu năm 2001, xã và cơ sở đã thành lập Ban chỉ đạo toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Đến cuối năm 2001 các xóm đều đẩy mạnh thực hiện hương ước, qui chế nếp sống văn hóa; năm 2003, xóm 2 được công nhận đạt danh hiệu xóm văn hóa; năm 2004, xóm 6 và trạm Y Tế xã được công nhận đạt danh hiệu xóm văn hóa; năm 2005, xóm 18 được công nhận đạt danh hiệu xóm văn hóa; đến năm 2005 đã có 3 xóm và trường học, trạm y tế đạt tiêu chuẩn văn hóa (đạt 80% chỉ tiêu đại hội), có 1439 hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa (tăng 30% so với năm 2000).

Ngày 18/01/2005, UBND huyện ban hành hướng dẫn số 03 về việc “Xây dựng và tổ chức hoạt động của nhà văn hóa xóm”. Thực hiện hướng dẫn của huyện, Đảng uỷ đã chỉ đạo Chính quyền xây dựng quy hoạch đất và hỗ trợ 1 phần kinh phí để nhân dân các xóm tự bàn bạc góp công góp tiền của, tự quản trong việc tu sửa, xây mới nhà văn hóa xóm. Đến năm 2005, toàn xã đã có 17/20 xóm hoàn thành việc quy hoạch đất xây dựng nhà văn hóa; xóm 6 và xóm 11 hoàn thành việc xây mới nhà văn hóa xóm với kinh phí trên 50 triệu đồng do nhân dân tự đóng góp.

 Sự nghiệp giáo dục từng bước nâng cao chất lượng. Ngành học Mầm non huy động 81,6% trẻ em trong độ tuổi đến lớp, duy trì 1 khu trung tâm nuôi dạy bán trú với số lượng 95 em, 100% giáo viên có trình độ trung cấp và cao đẳng. Trường Tiểu học, tỷ lệ học sinh giỏi hằng năm 17,2%; năm 2003, trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 1, năm 2005 đạt chuẩn quốc gia mức độ 2. Trường THCS, tỷ lệ học sinh giỏi hằng năm 14,16%, tăng so với năm 2000 là 8,16%, tỷ lệ học sinh trúng tuyển vào các trường THPT đạt 59,7%; trong 5 năm toàn xã có 102 em trúng tuyển Đại học, 235 em vào Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp. 

Ngày 07/3/2003, Tỉnh uỷ Nam Định ra Chỉ thị số 12-CT/TU, ngày 12/5/2003 UBND huyện ban hành kế hoạch số 12/2003-KH/UB về việc thành lập Trung tâm học tập cộng đồng. Ngày 05 tháng 11 năm 2003 xã đã thành lập Trung tâm  học tập cộng đồng và Đảng uỷ cử đồng chí Trần Văn Đán kiêm Giám đốc, đồng chí Trần Văn Phóng - Phó Giám đốc.

Phong trào xã hội hóa giáo dục được toàn dân tham gia. Đến năm 2005, toàn xã có 9 chi hội khuyến học của xóm, 16 chi hội khuyến học của các dòng họ với tổng quỹ gần 70 triệu đồng. Tổng quỹ khuyến học của xã trên 14 triệu đồng. Hằng năm vào dịp khai giảng Hội Khuyến học xã đã chi trợ cấp 100 ngàn đồng/học sinh nghèo, 300 ngàn đồng/học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ( trong đó mỗi năm 10 học sinh thuộc diện nghèo vượt khó do bà Lê Thị Hương –xóm 9 Hải Nam hiện nay sinh sống tại Vũng Tàu tài trợ ), phát thưởng từ 30- 150 ngàn đồng/lượt học sinh, giáo viên giỏi, học sinh nghèo vượt khó.

Thực hiện đề án "Tăng cường chăm sóc sức khoẻ nhân dân, đẩy mạnh công tác dân số kế hoạch hóa gia đình", đến năm 2005 xã đã bố trí 20/20 xóm có cán bộ y tế hưởng phụ cấp, trạm y tế xã có 1 Bác sĩ, 4Y tá trung cấp hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Hằng năm trạm Y tế định kỳ tiêm chủng cho trẻ em trong độ tuổi và phụ nữ có thai, quản lý sức khoẻ học đường, tổ chức khám điều trị mắt hột, răng miệng cho học sinh ở các cấp học, đồng thời khám và quản lý sức khoẻ cho người già, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. Công tác truyền thông dân số được đẩy mạnh,  trạm y tế tổ chức các dịch vụ kỹ thuật an toàn, thuận tiện. Tỷ lệ phát triển dân số bình quân 5 năm 2001-2005 là 0,75%, tăng 0,03% so với bình quân 5 năm 1996-2000, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên là 14,96%, giảm 6,44% so với trước. Năm 2004, trạm y tế xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia và là đơn vị đạt danh hiệu nếp sống văn hóa.

Trước hậu quả nặng nề do bão số 7 gây ra (ngày 27/9/2005), nhân dân Hải Nam vừa khắc phục những thiệt hại do bão tàn phá ở điạ phương vừa ủng hộ nhân dân các xã ven biển gần 20 triệu đồng. Năm 2004 và 2005 đã hỗ trợ 7 hộ với số tiền 33 triệu đồng xoá nhà tranh tre, vận động nhân dân giúp các hộ nghèo một số phương tiện sinh hoạt trị giá gần 2 triệu đồng. Vận động nhân dân ủng hộ nạn nhân chất độc da cam hơn 10 triệu đồng, nạn nhân bị sóng thần ở Đông Nam Á gần 5 triệu đồng.

 Hằng năm xã trích ngân sách tổ chức thăm hỏi động viên các gia đình chính sách nhân dịp ngày thương binh liệt sĩ và các ngày lễ tết. UBND đã tạo điều kiện cho nhân dân tiếp cận các nguồn vốn giải quyết việc làm của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng chính sách xã hội. Tổ chức tiếp nhận hồ sơ, thẩm định xét duyệt hưởng trợ cấp cho các đối tượng hoạt động kháng chiến, gia đình chính sách, làm thủ tục hưởng chế độ Huân Huy chương đúng quy định.

Ngày 26/7/2001, Thủ tướng chính phủ ra Quyết định số 916/QĐTTg cấp bằng số EP.299/CP công nhận Liệt sỹ đối với đồng chí Lê Đình Uấn sinh năm 1939 tại xóm 9 xã Hải Nam, hy sinh ngày 02 tháng 8 năm 1952 khi đang làm nhiệm vụ Liên lạc viên tại thôn Hội Khê xã Hải Nam. Đồng chí Lê Đình Uấn, ngày 2/8/1952 được đồng chí Đỗ Xuân Quán-Phó Chủ tịch Uỷ ban hành chính xã và đồng chí Phạm Đức Hậu-Trưởng Công an xã giao nhiệm vụ chuyển tài liệu về cơ sở bí mật. Trên đường vận chuyển bị địch bắt tra tấn dã man, treo lên cây ở đầu làng rồi bắn chết, ngày đó đồng chí là một Thiếu niên 13 tuổi đời.

Công tác văn hóa xã hội 5 năm 2001-2005 còn những hạn chế:  Tỷ lệ phát triển dân số và số xóm có người sinh con thứ 3 trở lên tăng cao so với trước, trình độ chuyên môn và trách nhiệm đội ngũ y tế xóm chưa cao. Cơ sở vật chất đồ dùng dạy học chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là các trường Mầm non và THCS. Chưa có đa số hộ gia đình và xóm đạt tiêu chí văn hóa. Tệ nạn nghiện hút ma tuý gia tăng, gây lo ngại và bức xúc trong nhân dân.

Công tác quân sự địa phương thường xuyên được cấp uỷ, chính quyền coi trọng việc xây dựng lực lượng Dân quân và lực lượng dự bị động viên đảm bảo tỷ lệ từ 9 đến 9,5% dân số, trong đó dự bị hạng 1 là 75%, hạng 2 là 25%. Đến năm 2005 đã biên chế vào lực lượng dự bị động viên 8,5% tổng nguồn hiện có được biên chế vào đơn vị Tiểu đoàn Phòng không - Lữ 162 – Quân khu 3, E180 và Tiểu đoàn Bộ binh 2 của huyện. Chế độ đăng ký nghĩa vụ quân sự ở tuổi 17 được triển khai đúng quy định. Trong 5 năm (2001-2005) đã tiễn 89 thanh niên nhập ngũ đảm bảo yêu cầu chất lượng toàn diện về sức khoẻ, học vấn và phẩm chất chính trị. Công tác quân sự xã Hải Nam năm 2001 đến 2005 được huyện xếp loại khá.

 Lực lượng công an được biên chế theo nghị định 40/CP của Chính phủ. Mạng lưới an ninh nhân dân hình thành sâu rộng, triển khai đồng bộ cuộc vận động "Thôn xóm bình yên, gia đình hoà thuận", các vụ việc va chạm, mất đoàn kết trong nhân dân được hoà giải và xử lý dứt điểm. Trong 5 năm từ năm 2001 đến 2005 đã phát hiện và sử lý 79 vụ việc, chuyển huyện 12 vụ việc với 26 đối tượng, các vụ việc đều được giải quyết, xử lý đúng luật, đúng người, đúng tội.

Tuy vậy, những năm qua tình hình an ninh trật tự ở Hải Nam diễn biến phức tạp, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng nhất là tệ nạn ma tuý. Lực lượng an ninh chủ yếu tập trung sử lý vụ việc vi phạm; công tác điều tra, phát hiện, tuyên truyền vận động nhân dân tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm còn hạn chế. Số lượng Thanh niên vi phạm luật nghĩa vụ quân sự phải sử lý có xu hướng ngày càng tăng; công tác khám tuyển nghĩa vụ quân sự gặp nhiều khó khăn do Thanh niên đi làm xa quê ngày một nhiều.

Thực hiện nghị quyết Trung ương 8 (khóa VIII) về cải cách nền hành chính và Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 01/9/2003 của Thủ Tướng Chính phủ, từ ngày 01/01/2004 thực hiện chế độ giao dịch hành chính một cửa tại UBND xã trên 4 lĩnh vực: Chứng thực, lao động thương binh xã hội, đất đai và hướng dẫn kê khai thuế, lệ phí trước bạ, đăng ký kinh doanh. Hoạt động của HĐND-UBND tiếp tục đổi mới, thực hiện đúng quy chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý. Chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương được phát huy. HĐND tổ chức các kỳ họp đúng định kỳ, tập trung thảo luận thông qua các chỉ tiêu, kế hoạch phát triển của địa phương, đồng thời có kế hoạch giám sát việc tổ chức thực hiện của các ban ngành , đoàn thể, đơn vị ở địa phương.

Ngày 19/5/2002, Đảng bộ đã lãnh đạo hoàn thành cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội ở địa phương đảm bảo an toàn đúng luật. Ngày 25 tháng 4 năm 2004, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc bầu cử HĐND 3 cấp nhiệm kỳ 2004- 2009.Tổng số cử tri đi bầu cử là 5.699(đạt 100%) đảm bảo an toàn đúng luật.  Đã bầu được 27 Đại biểu theo qui định của pháp luật. Tại phiên họp thứ nhất, HĐND xã bầu đồng chí Lê Đức Huy đảm nhiện chức vụ Chủ tịch HĐND, đồng chí Đỗ Thanh Chương - Phó Chủ tịch HĐND, đồng chí Trần Văn Đán - Chủ tịch UBND xã.

Bộ máy chính quyền xã được tổ chức sắp xếp theo tinh thần Nghị định 121/NĐ- CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ và thông tư liên tịch số 34 của Liên Bộ Nội vụ-Tài chính-Lao động thương binh xã hội về chính sách đối với cán bộ công chức xã, nâng cao trách nhiệm quyền hạn của từng tổ chức, cá nhân, tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo sự chuyển biến trong quản lý xã hội, phát triển kinh tế địa phương, nhất là tổ chức thực hiện các đề án xây dựng, kiến thiết, quản lý ngân sách, hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch kinh tế xã hội.

Thông qua cải cách hành chính, hoạt động của Chính quyền được tăng cường, tuy nhiên so với yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân thì hoạt động của Chính quyền còn có hạn chế: Một số Đại biểu HĐND năng lực chưa tương xứng, trách nhiệm 1 số Đại biểu chưa cao, công tác kiểm tra giám sát hiệu quả còn thấp. Năng lực 1 số cán bộ Chính quyền còn hạn chế, còn để lấn chiếm đất đai và hành lang giao thông, giải quyết 1 vài vụ vi phạm pháp luật chưa chặt chẽ. Để tăng cường công tác dân vận, BCH Đảng uỷ, chính quyền đã chỉ đạo các đoàn thể xây dựng quy chế hoạt động. Hàng tuần tổ chức giao ban giữa thường trực Đảng uỷ, UBND với trưởng, phó các đoàn thể để nắm tình hình và thống nhất chỉ đạo hoạt động của các đoàn thể nhằm từng bước khắc phục những hạn chế, khắc phục tính hình thức, đổi mới nội dung hình thức hoạt động theo phương châm thiết thực và rộng khắp bằng các kế hoạch, đề án cụ thể. Năm 2002 tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 8B về công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và dân. Năm 2003 tổ chức hội thi cán bộ dân vận khéo. Năm 2005 xã tiến hành sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7(khóa IX) về đại đoàn kết toàn dân tộc.

Hoạt động của mặt trận và các đoàn thể nhân dân trọng tâm là vận động đoàn viên hội viên thực hiện các cuộc vận động: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng "Khu dân cư 5 không"( Không người sinh con thứ 3 trở lên, Không người khiếu kiện trái pháp luật, Không trẻ em bỏ học, Không tệ nạn xã hội, Không hộ nghèo ); hướng dẫn các tôn giáo hoạt động theo pháp lệnh nhà nước, phát động nhân dân quyên góp ủng hộ quỹ bảo trợ nạn nhân chất độc da cam, quỹ vì người nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ vùng bị thiệt hại nặng do bão lũ, xây dựng nhà đại đoàn kết, khuyến học khuyến tài, tổ chức ngày hội đại đoàn kết ở khu dân cư vào dịp kỷ niệm thành lập MTTQ Việt Nam (18/11) hàng năm. Đến năm 2005, thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng "Khu dân cư 5 không", xã Hải Nam đã có xóm 2 đạt “4 không”, 12 xóm đạt “3 không”, 7 xóm đạt “2 không”. Các cuộc vận động quỹ tình nghĩa, từ thiện…MTTQ đều vận động nhân dân hưởng ứng đạt 100% chỉ tiêu định hướng.

        Đoàn thanh niên đã vận động tuổi trẻ Hải Nam đẩy mạnh phong trào "Thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước", tích cực hoạt động văn hóa, thể thao, vận động thanh niên thực hiện luật nghĩa vụ quân sự và xung kích trong các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, nhất là nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, trồng cây vụ đông trên chân ruộng 2 lúa, giữ gìn trật tự an ninh và tham gia quản lý giáo dục, phòng ngừa các tệ nạn xã hội, phối hợp với nhà trường làm công tác giáo dục thiếu niên nhi đồng. Năm 2002 xã đoàn đã phát động đoàn viên vận động được ….. triệu đồng ủng hộ biên giới hải đảo. Năm 2003, phong trào đoàn xã đạt vững mạnh; năm 2004 và 2005 đạt khá.

       Hội phụ nữ từ năm 2001-2005 đã tập hợp được trên 2000 hội viên. Hội đã đẩy mạnh thực hiện 6 chương trình do Trung ương hội phát động: Giáo dục phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực mọi mặt cho phụ nữ; hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình; xây dựng gia đình ấm no bình đẳng tiến bộ hạnh phúc; xây dựng và phát triển tổ chức hội vững mạnh; tham gia xây dựng và thực hiện luật pháp. Duy trì đều đặn 2 câu lạc bộ “phụ nữ với pháp luật và xây dựng gia đình hạnh phúc”. Đối với các hộ cần vốn sản xuất, Hội đứng ra tín chấp cho hội viên vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất. Năm 2004 – 2005, hội phụ nữ đã vận động được 1,3 triệu đồng ủng hộ xây dựng đền Hai Bà Trưng. Năm 2002 đến 2005 là đơn vị đạt xuất sắc. Hội phụ nữ xã được Công an tỉnh tặng giấy khen về phòng chống ma tuý, năm 2002 đến 2005 được Huyện hội tặng giấy khen.

Hội nông dân xã đến năm 2005 đã thu hút được 1450 hội viên. Từ năm 2001-2005, Hội nông dân Hải Nam tập trung đẩy mạnh 4 chương trình công tác hội, trọng tâm là phong trào "sản xuất kinh doanh giỏi", "xoá đói giảm nghèo", tuyên truyền vận động hội viên thực hiện chuyển đổi cây trồng vật nuôi. Hội là chủ dự án tín chấp đã phối hợp với ngân hàng tổ chức cho hội viên vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh. Những năm qua, thực hiện nghị quyết liên tịch số 02 giữa Công an huyện và Hội nông dân, các chi hội đã phối hợp với các đoàn thể phát động quần chúng đẩy mạnh phòng chống các tệ nạn xã hội. Từ năm 2003, phong trào hội nông dân được xếp loại khá và vững mạnh.

Đến năm 2005, toàn xã đã có 19 chi hội Cựu chiến binh với 446 hội viên.Từ năm 2001 đến năm 2005 Hội Cựu chiến binh duy trì tốt các hoạt động, giữ vững và phát huy phẩm chất bộ đội Cụ Hồ, tham mưu cho Đảng và Chính quyền về công tác lãnh đạo quản lý điều hành. Năm 2004 hội đã vận động hội viên đóng góp 1.524 ngàn đồng ủng hộ xây tượng đài Điện Biên, vận động được 6.339 ngàn đồng ủng hộ người bị thiệt hại nặng trong cơn bão số 7 năm 2005. Năm 2005 có 94,3% hội viên đạt gương mẫu, 93,8% gia đình CCB văn hóa, còn 6,2% không đạt tiêu chí văn hóa. Năm 2001, phong trào xếp loại khá; từ năm 2002 đến 2005 hội CCB xã được huyện xếp loại tiên tiến và năm 2002 được Tỉnh hội tặng bằng khen.

Các Hội người cao tuổi, Hội chữ thập đỏ, Hội sinh vật cảnh, Hội khuyến học đã có nhiều hoạt động phong phú, góp phần xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp.

Tuy vậy hoạt động của các tổ chức đoàn thể còn thụ động và lúng túng trong việc triển khai các chương trình công tác của đoàn hội cấp trên.  Một số chi hội, chi đoàn hoạt động còn yếu nhưng chưa được cấp uỷ quan tâm kịp thời. Số lượng Thanh niên tham gia tổ chức đoàn còn ít, nội dung sinh hoạt nghèo nàn.Công tác tham mưu, xây dựng Đảng, Chính quyền của các đoàn thể còn nhiều hạn chế.

Công tác xây dựng đảng của Đảng bộ tiếp tục được tăng cường toàn diện. Trên lĩnh vực tư tưởng, Đảng uỷ tập trung làm tốt việc học tập quán triệt các chỉ thị nghị quyết, nhằm nâng cao nhận thức, thống nhất ý chí trong cán bộ đảng viên và sự đồng thuận trong nhân dân về yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà trực tiếp ở địa bàn Hải Nam là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa được coi là nhiệm vụ trung tâm và xây dựng Đảng bộ ngày càng trong sạch vững mạnh là nhiệm vụ then chốt.

Năm 2001, Đảng uỷ tổ chức quán triệt Nghị quyết Đại hội IX,  Nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành trung ương, Bộ chính trị, Ban Bí thư Trung ương, Nghị quyết của  Đảng bộ tỉnh, huyện và qui định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm cho toàn thể cán bộ đảng viên. Số lượng đảng viên dự học tập đạt từ 60 đến 70%. Mỗi lần học nghị quyết, Đảng uỷ đều chỉ đạo UBND và các ban ngành liên quan căn cứ chức năng nhiệm vụ để xây dựng chương trình hành động tập trung những vấn đề mới, vấn đề cơ bản nhằm tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ ở địa phương.

Năm 2003, Đảng bộ triển khai nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 lần 2(Khóa VIII). Cùng với học tập, các chi bộ tổ chức thảo luận, cán bộ đảng viên viết thu hoạch, liên hệ bản thân và cam kết thực hiện. Năm 2004, Đảng uỷ tổ chức cuộc thi tuyên truyền viên giỏi về tư tưởng Hồ Chí Minh cho các đồng chí Bí thư chi bộ, trưởng phó các đoàn thể, thông qua hội thi đã chọn cử 2 đồng chí dự thi ở huyện. Cuối năm 2004, thực hiện Quyết định số 84 của Trung ương Đảng về kinh phí hoạt động của đảng, các chi bộ có 1 số báo Nhân Dân, 1 số báo Nam Định, 1 Thông báo nội bộ.

 Năm 2005 nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội và 75 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt nam, Trung ương phát động cuộc thi tìm hiểu 75 năm lịch sử vẻ vang của Đảng, tìm hiểu 60 năm nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, tìm hiểu truyền thống sáng mãi phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ và cuộc thi tìm hiểu đất và người Quân khu 3 do Bộ tư lệnh Quân khu phát động. Toàn xã đã có trên 1 ngàn bài dự thi, nhiều bài viết tâm huyết, công phu, chất lượng; đồng chí Bùi Thị Bích Hường là giáo viên tiểu học Hải Nam đạt giải nhất cấp huyện, giải ba cấp tỉnh cuộc thi tìm hiểu 75 năm lịch sử vẻ vang của Đảng và được Bộ tư lệnh Quân khu trao giải Khuyến khích cuộc thi tìm hiểu truyền thống sáng mãi phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ và cuộc thi tìm hiểu Đất và người Quân khu 3. Cũng trong năm 2005, Đảng uỷ đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị trong Đảng bộ và nhân dân nghiên cứu, thảo luận góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện đại hội Đảng các cấp tiến tới đại hội X của Đảng.

 Thực hiện nghị quyết số 05, số 06 của Ban chấp hành Đảng bộ huyện và  Nghị định 121-NĐ/CP của Chính phủ, đội ngũ cán bộ xã được bố trí , sắp xếp theo hướng chuẩn hóa đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ. Việc sắp xếp bố trí cán bộ trên cơ sở quy hoạch đảm bảo nguyên tắc, tiêu chuẩn, từng bước trẻ hóa, có kế thừa và phát triển. Hàng năm cấp uỷ, cán bộ xóm, đội sản xuất đều được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ. Trong nhiệm kỳ , Đảng uỷ đã cử: 1 đồng chí đi học trung cấp quản lý nhà nước, 4đồng chí học sơ cấp quản lý nhà nước; 1 đồng chí học trung cấp chính trị, 9  đồng chí học sơ cấp chính trị; 5 đồng chí học chuyên môn nghiệp vụ và 4 đồng chí học văn hóa tại huyện. Cử 46 quần chúng ưu tú học lớp đối tượng Đảng và đã xét kết nạp 35 đảng viên mới, vượt 85% so với chỉ tiêu và tăng 24 đồng chí so với nhiệm kỳ XXVI. Đến năm 2005, đội ngũ cán bộ công chức xã đã có 70% trình độ chuyên môn trung cấp và cao đẳng, 68% trung cấp chính trị và trung cấp quản lý nhà nước.

 Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, Đảng uỷ đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra việc chấp hành chủ trương đường lối, chính sách, pháp luật, điều lệ đảng đối với cán bộ đảng viên và tổ chức đảng. Kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm nhằm kịp thời ngăn ngừa, giáo dục, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng. Căn cứ vào tình hình nhiệm vụ và chương trình kiểm tra của Huyện uỷ, Đảng uỷ đã chỉ đạo Uỷ ban kiểm tra xây dựng chương trình kế hoạch kiểm tra phù hợp với tình hình địa phương. Năm 2001 đến 2005 đã kiểm tra 5 chi bộ, xử lý kỷ luật 11 đảng viên; trong đó:  Khai trừ 2 đảng viên, cảnh cáo 9, xoá tên 5 đảng viên không thiết tha với Đảng.

Ngày 17/10/2003 Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 29 về việc đổi thẻ đảng viên, Đảng uỷ đã tổ chức rà soát, phân loại, đánh giá chất lượng tổ chức Đảng và đảng viên. Thông qua việc tổ chức bước 2 tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Đảng uỷ đã đánh giá phân tích chất lượng có 19/24 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, 5/24 chi bộ đạt khá, không có chi bộ yếu kém;  24,1% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 66,1% đảng viên mức 1, Đảng viên mức 2 là 33,04%, mức 3 là 0,86%. Đảng uỷ đã tiến hành đổi và phát thẻ vào các đợt: 3/2, 19/5, 7/11 cho 458 đảng viên (đạt 100 %).

 Cũng thông qua công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, Đảng uỷ đã phát hiện một số hạn chế: Năng lực lãnh đạo của 1 vài chi bộ chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, công tác kiểm tra chưa thường xuyên,  việc phát triển đảng viên mới trong lực lượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp còn ít, một số đảng viên có biểu hiện lười học tập và rèn luyện, phát ngôn bừa bãi, thậm chí bỏ sinh hoạt. Đảng uỷ đã từng bước uốn nắn và xem xét xử lý kịp thời.

 Đến năm 2005, Đảng bộ đã có 3 đảng viên được trao tặng huy hiệu 50 năm tuổi đảng, 50 đảng viên được trao tặng huy hiệu 40 năm tuổi đảng. Năm 2001 đến 2005 Đảng bộ liên tục đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh.

Ngày12 và 13 tháng 6 năm 2005, Đại hội Đại biểu Đảng bộ xã Hải Nam lần thứ XXVII nhiệm kỳ 2005-2010 đã khẳng định thành tựu nổi bật 5 năm 2001-2005 của Đảng bộ và nhân dân Hải Nam là: Các mục tiêu kinh tế-xã hội đều hoàn thành vượt mức. Xây dựng các công trình phúc lợi đảm bảo chất lượng hiệu quả. Bộ mặt nông nghiệp nông thôn đổi mới, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện. Trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đảng bộ giữ vững và phát huy danh hiệu trong sạch vững mạnh, Chính quyền vững mạnh, các đoàn thể tiên tiến.        

Theo quy định của Điều lệ Đảng và biểu quyết của các Đại biểu, Đại hội tiến hành bầu Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2005-2010 gồm 15 uỷ viên.Kết quả: Sau 2 lần bỏ phiếu, Đại hội đã bầu được 14 đồng chí Uỷ viên Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2005-2010. Ngày 17 tháng 6 năm 2005, Ban chấp hành Đảng bộ họp phiên thứ nhất bầu Ban Thường vụ và các chức vụ chủ chốt: Đồng chí Lê Văn Nhuyên tiếp tục tái cử chức vụ Bí thư Đảng uỷ, đồng chí Lê Đức Huy - Phó Bí thư thường trực - Chủ tịch HĐND, đồng chí Trần Văn Đán - Uỷ viên Ban Thường vụ - chủ tịch UBND xã. Ngày 05 tháng 12 năm 2006, Ban Thường vụ Huyện uỷ Hải Hậu ra Quyết định số 80 chỉ định đồng chí Lê Văn Tỵ - Uỷ viên UBND - Trưởng công an xã vào Ban chấp hành Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2005-2010.

Ngày 22 tháng 12 năm 2006, Ban chấp hành Đảng bộ bầu bổ sung Ban Thường vụ và chức vụ Phó Bí thư:  Đồng chí Trần Văn Đán - Phó Bí thư - chủ tịch UBND xã, đồng chí Mai Quang Trung - Uỷ viên Ban Thường vụ - Phó chủ tịch UBND xã phụ trách kinh tế, đồng chí Mai Khải Hoàn - Uỷ viên Ban Thường vụ - Phó chủ tịch UBND xã phụ trách văn hóa xã hội.

Đảng bộ hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ năm 2005 cũng là kết thúc giai đoạn 20 năm đổi mới (1986-2005 ), cán bộ đảng viên và nhân dân Hải Nam cùng với cả nước thực hiện công cuộc đổi mới tạo ra thế và lực mới, vững vàng bước vào thời kỳ hội nhập đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội Đại biểu Đảng bộ Hải Nam lần thứ XXVII đã quyết nghị các chỉ tiêu chủ yếu trong 5 năm 2005-2010: Năng suất lúa đạt 127 tạ/ha, có từ 15-20% diện tích cây vụ đông trên chân ruộng 2 lúa, giá trị sản xuất đạt 40-45 triệu đồng/ha/năm, giá trị nuôi trồng Thuỷ sản đạt 250-300 triệu đồng/năm. Xây mới 3 khu trường Mầm non ở 3 miền theo mô hình chuẩn quốc gia, xây dựng biểu tượng khu di tích lịch sử nơi treo lá cờ Đảng tháng 7 năm 1931.   Thu nhập bình quân đến năm 2010 đạt 7 triệu đồng/người/năm.Thu ngân sách trên địa bàn tăng 5-7%/năm so với dự toán trên giao.Tỷ lệ tăng dân số dưới 0,75%, tỷ lệ người sinh con thứ 3 trở lên giảm dưới 14,5%, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5%. Huy động 100% học sinh trong độ tuổi đến trường, thi tốt nghiệp THCS đạt trên 98%, hàng năm có trên 65% học sinh dự thi trúng tuyển vào các trường THPT. Có trên 70% gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa; Trạm y tế, trường Tiểu học, xóm 2 và xóm 6 giữ vững danh hiệu xóm văn hóa, cơ quan văn hóa; mỗi năm có 1-2 xóm, cơ quan đạt tiêu chí văn hóa. Hoàn thành đạt và vượt chỉ tiêu giao quân hàng năm. Có 90% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Giữ vững và phát huy danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh, Chính quyền vững mạnh, các đoàn thể tiên tiến xuất sắc, xây dựng Hải Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh.

 

KẾT LUẬN

Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Hải Nam gắn liền với mảnh đất con người Hải Hậu. Trải hơn 500 năm, từ buổi đầu mở đất, người dân Hải Nam đã chung sức chung lòng lập làng lập xã; kiên cường, anh dũng trong đấu tranh chống áp bức bất công, chống giặc, giữ nước, giữ làng, dựng nghiệp, xây đời sống mới. Đó là những trang sử thấm đượm trí tuệ, mồ hôi, xương máu của nhiều thế hệ. Trải qua những năm tháng ấy, nhất là từ ngày có Đảng lãnh đạo, Đảng bộ và nhân dân Hải Nam đã tô thắm, hun đúc thêm truyền thống yêu nước, yêu quê hương, truyền thống đoàn kết, cần cù, dũng cảm và sáng tạo, truyền thống và nét văn hóa của mảnh đất con người Hải Hậu. Từ quá trình lãnh đạo, chỉ đạo hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ Hải Nam, có thể rút ra những kinh nghiệm có ý nghĩa thiết thực:

         Một là: Đảng bộ luôn quán triệt, nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng, vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Đây là nhân tố quyết định sự thắng lợi của phong trào cách mạng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Hai là: Thường xuyên coi trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đây là yếu tố then chốt để giữ vững niềm tin của nhân dân Hải Nam với Đảng. Ở đâu và thời điểm nào mà Đảng bộ không quan tâm củng cố tổ chức, giáo dục, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ đảng viên, công tác kiểm tra giám sát bị buông lỏng thì khi đó vai trò hạt nhân lãnh đạo các nhiệm vụ chính trị ở địa phương gặp khó khăn phức tạp.

Ba là: Đảng bộ phải thường xuyên nắm vững tình hình, đánh giá đúng tư tưởng tâm trạng và hiệu quả lãnh đạo của các chi bộ, tổ chức đoàn thể xóm đội. Tăng cường kiểm tra đảng viên thực hiện điều lệ Đảng, qua đó nâng cao sức chiến đấu của đảng bộ, giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng và sự đồng thuận xã hội.

Bốn là: Không ngừng chăm lo xây dựng củng cố chính quyền nhân dân vững mạnh, thực sự là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ chủ yếu của nhân dân, là chính quyền của dân, do dân và vì dân.

Năm là: Trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ luôn quan tâm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo, phát huy vai trò trách nhiệm của MTTQ, các đoàn thể nhân dân trong việc xây dựng bảo vệ  Đảng, bảo vệ Chính quyền, đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân. Luôn chăm lo kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động của mặt trận và các đoàn thể nhằm thu hút sự tham gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào việc xây dựng hệ thống chính trị.

Uống nước nhớ nguồn, những đổi thay tiến bộ của hôm nay được bắt nguồn từ mồ hôi, trí tuệ, máu xương của mọi thế hệ hôm qua. Ôn lại chặng đường  lịch sử của Đảng bộ và nhân dân Hải Nam là để tìm thấy ở trong đó sức mạnh của quá khứ, sức mạnh của truyền thống, làm hành trang cho hôm nay và các thế hệ mai sau tiếp bước xây dựng quê hương, đất nước ngày thêm giàu đẹp văn minh.

Họ Mai Trà Trung Họ Mai Hải Nam Họ Mai Hải Hậu Họ Mai Nam Định Họ Mai Việt Nam