Lời tựa về nguồn gốc các vị thần ở Làng Trà Trung, xã Hải Nam

Lời tựa về nguồn gốc các vị thần ở làng Trà Trung, xã Hải Nam Lời tựa về nguồn gốc các vị thần ở làng Trà Trung, xã Hải Nam

LỜI TỤA VỀ NGUỒN GỐC CÁC VỊ THẦN Ở LÀNG TRÀ TRUNG

國 朝 禮 部 正 本

Quốc triều Lễ bộ chính bản

Theo ghi chép của Lễ bộ của bản triều ta:

初 炎 帝 三 世 尊 帝 明 生 帝 宜 既 而 南 旬 五 嶺 接 得 婺 仙 娘 而 生 經 陽 王 陽 王 資 禦 非 常 自 有 帝 王 氣 概 帝 明 欲 傅 大 寳 陽 王 固 讓 其 兄 於 是 帝 明 傳 大 寳 於 帝 宜 而 封 經 陽 於 南 方 後 爲 赤 鬼 國

Sơ Viêm Đế tam thế tôn Đế Minh sinh Đế Nghi ký nhi nam tuần Ngũ Lĩnh tiếp đắc Vụ Tiên nương nhi sinh Kinh Dương Vương Dương Vương tư ngự phi thường tự hữu đế vương khí khái Đế Minh dục phó đại bảo Dương Vương cố nhượng kỳ huynh ư thị Đế Minh truyền đại bảo ư Đế Nghi nhi phong Kinh Dương ư Nam phương hậu vy Xích Quỷ quốc

Thời xa xưa, cháu 3 đời của Viêm Đế (Thời đại Thần Nông cai trị đất Trung Hoa ngày nay từ năm 3227TCN - 2697TCN với 8 đời vua: Viêm Đế (140 năm) -> Đế Lâm Khôi (80 năm) -> Đế Thừa (60 năm) -> Đế Minh (49 năm) -> Đế Nghi (45 năm) -> Đế Lai (48 năm) -> Đế Lý (43 năm) -> Tiết Hành (không làm vua) -> Khắc (không làm vua) -> Đế Du Võng (55 năm). Trong đó thời kỳ Tiết Hành và Khắc bị Xuy Vưu thoán nghịch. Đế Du Võng cùng Hoàng Đế đánh bại Xuy Vưu, sau đó truyền ngôi cho Hoàng Đế) là Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Đế Minh đi tuần phương nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp và lấy con gái của bà Vụ Tiên sinh ra Kinh Dương Vương [vốn tên là Lộc Tục cai trị từ 2919TCN-2792TCN]. Lớn lên, Kinh Dương Vương có tư chất phi thường, có lượng đế vương, vì vậy mà Đế Minh có ý muốn nhường ngôi báu cho nhưng Kinh Dương Vương cố nhường ngôi cho anh trưởng, do đó Đế Minh truyền ngôi báu cho Đế Nghi, đồng thời phong cho Kinh Dương Vương mảnh đất phương nam với quốc hiệu Xích Quỷ. [Theo ghi chép dã sử Việt Nam: vùng đất mà Kinh Dương Vương cai trị ở phía nam sông Trường Giang mà sau này là Kinh Châu và Dương Châu là 2 trong 9 khu vực (do vua Đại Vũ phân chia) hoặc 2 trong 12 khu vực (do vua Thuấn phân chia) – vì vậy tên Kinh Dương Vương do người đời sau đặt để chi đây là Vua của Kinh Châu và Dương Châu. Còn tên nước Xích Quỷ có lẽ là do nhầm lẫn trong cuộc chiến giữa liên minh Hoàng Đế và Thần Nông với Xuy Vưu, trong đó Xuy Vưu thường có hình dạng là mặt quỷ, đến nay ở Nam Trung Quốc, Xuy Vưu vẫn còn được thờ cúng]

焉 陽 王 拜 辭 父 元 往 仕 代 粵 歷 觀 初 川 形 勝 之 便 驩 州 勝 地 建 立 京 都 義 嶺 形 強 重 修 片 殿 碧 水 一 澄 啟 聖 帝 明 王 之 運 基 山 萬 里 創 城 都 宮 殿 之 基 開 物 齊 人 統 十 五 部 大 壮 籓 翰 之 芳 惟 皇 國 治 餘 二 十 年 永 扶 盤 石 之 宗 世 世 父 傳 子 緒 皆 號 稱 雄 王 玉 帛 車 書 山 河 一 統 是 爲 百 粵 之 祖

Yên Dương Vương bái từ phụ nguyên vãng sĩ Đại Việt lịch quán sơ xuyên hình thăng chi tiện Hoan châu thắng địa kiến lập kinh đô Nghĩa Lĩnh hình cường trùng tu phiến điện bích thuỷ nhất trừng khởi thánh Đế Minh Vương chi vận cơ sơn vạn lý sang thành đô cung điện chi cơ khai vật tề nhân thống thập ngũ bộ đại tráng phiên hàn chi phương duy hoàng quốc trị dư nhị thiên niên vĩnh phù bàn thạch chí tông thế thế phụ truyền tử tự giai hiệu xưng Hùng Vương ngọc bạch xa thư sơn hà nhất thống thị vi Bách Việt chi tổ

Kinh Dương Vương từ biệt vua cha về mảnh đất mình được phong, ngài đi khắp quan san Đại Việt (Từ trước thời nhà Tấn ở Trung Hoa, họ sử dụng từ Việt để chỉ cư dân trồng lúa lâu đời, để phân biệt người Hoa là dân du mục. Từ thời nhà Tấn trở đi họ lại sử dụng chữ Việt với nghĩa vùng đất tốt tươi để nói rằng xuất xứ của người Hoa xưa cũng biết trồng lúa nước. Từ đó trở đi và sau này, các sách sử Việt Nam xưa đều sử dụng chữ Việt này để đặt tên cho quốc hiệu của nước ta. Trong tài liệu chữ nho này sử dụng chữ Việt của người xưa có nghĩa cư dân trồng lúa là phù hợp, tuy rằng khác với chữ Việt được nhà nước phong kiến sử dụng) ngắm cảnh sông nước, danh thắng để tìm mảnh đất đẹp tạo dựng kinh đô. Khi qua mảnh đất Nghĩa Lĩnh thấy địa hình cường thịnh, thoáng trông qua non xanh nước biếc – một nơi đất tốt để kế nghiệp Đế Minh, mở mang thêm cơ đồ vạn dặm liền quyết định xây dựng cung điện, khai mở vạn vật, chia đất nước thành 15 bộ lớn. Vua tạo dựng cơ đồ vững như bàn thạch, trải trên 2000 năm truyền con cháu nối tiếp nhau cai trị đều gọi là Hùng Vương (Từ đầu thế kỷ XX, người ta cho rằng tên gọi Hùng là do viết nhầm từ chữ Lạc mà ra. Xét thấy chữ Lạc hợp lý hơn là chữ Hùng), sơn hà xã tác quy về một mối, được truy tôn là “Bách Việt chi tổ”.

焉 傳 至 二 世 稱 貉 龍 君 龍 君 娶 慪 姬 仙 女 居 於 義 嶺 山 韻 五 色 祥 雲 燦 爛 慪 姬 於 是 有 孕 三 年 三 月 三 十 日 乃 生 下 一 脆 百 丽 挺 出 百 男 之 祥 皆 爲 姿 質 逸 人 英 雄 盛 世 及 至 長 成 王 乃 建 候 立 异 分 國 爲 十 五 部 一 曰 山 西 二 曰 山 南 三 曰 海 陽 四 曰 京 北 五 曰 愛 州 六 曰 驩 州 七 曰 市 政 八 曰 嗚 州 九 曰 哀 牢 十 曰 興 化 十 一 曰 宣 光 十 二 曰 高 平 十 三 曰 諒 山 十 四 曰 廣 西 十 五 曰 廣 東

Yên truyền chí nhị thế xưng Lạc Long Quân Long Quân thú Âu Cơ tiên nữ cư ư Nghĩa Lĩnh sơn đầu ngũ sắc tường vân xán lạn âu cơ ư thị hữu dựng tam niên tam nguyệt tam thập nhật nãi sinh hạ nhất thúy bách noãn đĩnh xuất bách nam chi tường giai vy tư chất quá nhân anh hùng thịnh thế cập chí trưởng thành Vương nãi kiến hiệp lập dị phân quốc vy thập ngũ bộ nhất viết Sơn Tây nhị viết Sơn Nam tam viết Hải Dương tứ viết Kinh bắc ngũ viết Ái Châu lục viết Hoan Châu thất viết Bố Chính bát viết Ô Châu cửu viết Ai Lao thập viết Hưng Hóa thập nhất viết Tuyên Quang thập nhị viết Cao Bằng thập tam viết Lạng Sơn thập tứ viết Quảng Tây thập ngũ viết Quảng Đông

Truyền đến đời thứ 2, xưng là Lạc Long Quân (Theo Đại Việt sử ký toàn thư Lạc Long Quân vốn con người đàn bà chăn dê thần (chữ Lạc) con Long Vương – về sau các sách đều phê phán quan điểm này là nhầm lẫn với truyện của thời Đường tạo ra nhưng vẫn sử dụng hán tự Lạc này thực ra phải là chữ Lạc chỉ loài chim chân ngắn trên trống đồng. Vua có tên Sùng Lãm ở ngôi từ 2825TCN - 2524TCN). Lạc Long Quân kết hôn với tiên nữ Âu Cơ sống trên núi Nghĩa Lĩnh, trên đầu luôn tỏa ánh ngũ sắc (cầu vồng), vân mây xán lạn (Theo Lĩnh Nam chích quái ghi: Âu Cơ là “ái nữ” của Đế Lai, chữ ái nữ xưa nay được người ta dịch là con gái yêu - tức là quan hệ Lạc Long Quân và Âu Cơ là quan hệ chú lấy cháu, nhưng chữ ái nữ còn có nghĩa khác là người phụ nữ mà Đế Lai yêu - hiểu theo nghĩa này thì hợp luân thường đạo lý xã hội hơn). Âu Cơ mang thai trong 3 năm, 3 tháng, 10 ngày sinh ra một bọc trứng, nở thành trăm người con trai có mặt mũi sáng sủa, tư chất khác thường, anh hùng dũng khí, không cần nuôi nấng cũng tự trưởng thành. Vua kiến lập và phân chia đất nước thành 15 bộ: Sơn Tây, Sơn Nam, Hải Dương, Kinh Bắc, Ái Châu, Hoan Châu, Bố Chính, Ô Châu, Ai Lao, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Tây, Quảng Đông [Đây là phân chia địa giới hành chính cơ bản vào thời Hậu Lê Trung Hưng chứ không phải từ xa xưa và cũng không giống sử sách quốc triều phân chia].

先 是 竜 君 謂 慪 姬 曰 我 是 竜 種 你 是 儂 種 雞 陰 陽 之 氣 合 而 有 子 然 方 麵 不 同 水 火 相 尅 不 可 同 居 因 與 之 相 别 分 五 十 子 従 父 歸 海 爲 水 神 五 十 子 従 母 歸 山 爲 山 神 封 爲 百 王 分 爲 百 姓 均 享 天 祿 别 據 一 方 期 以 有 事 相 聞 則 相 來 取 不 得 棄

Tiên thị Long Quân vị Âu Cơ viết ngã thị long chủng nhĩ thị nùng chủng kê âm dương chi khí hợp nhi hữu tử nhiên phương miến bất đồng thủy hỏa tương khắc bất khả đồng cư nhân dữ chi tương biệt phân ngũ thập tử tòng phụ quy hải vy thủy thần ngũ thập tử tòng mẫu quy sơn vy sơn thần phong vy bách vương phân vy bách tắc quân hưởng thiên lộc biệt cứ nhất phương kỳ dĩ hữu sự tương văn tắc tương lai thủ bất đắc khí

Một lần, Long Quân gọi Âu Cơ đến và nói: “Ta là giống rồng, nàng là giống nông, âm dương dung hợp tuy đã có con nhưng cục diện khác biệt, thủy hỏa xung khắc, không thể chung sống cùng nhau được nữa. Nay phân chia 50 người con theo cha xuống biển làm thủy thần, 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần, phong làm trăm vương chia nhau cai trị các nơi cùng hưởng lộc trời, chiếm giữ một phương, mỗi khi xảy ra vấn đề gì thì hỗ trợ lẫn nhau, không được phụ lời thề”.

焉 故 終 雄 朝 以 後 水 神 常 能 従 入 人 家 爲 子 以 護 國 保 民 何 家 福 厚 則 遇 得 之

Yên cố chung Hùng triều dĩ hậu thủy thần thường năng tòng nhập nhân gia vy tử dĩ hộ quốc bảo dân hà gia phúc hậu tắc ngộ đắc chi

Từ đó về sau các thời vua Hùng, các thủy thần sau này thường nhập vào dưới hình dạng con người làm con các bậc đế vương để giúp bảo vệ đất nước, dạy bảo dân chúng, tạo phúc về sau. [trong các câu chuyện về cuộc đời các hoàng tử Minh lang, Triệu Việt Vương và Linh lang]

Họ Mai Trà Trung Họ Mai Hải Nam Họ Mai Hải Hậu Họ Mai Nam Định Họ Mai Việt Nam